Phiêu Miểu 5 - Quyển Nhiên Tê

Chương 47

Ngoại truyện 1: Nguyên Tiêu

Tháng Giêng đến, muôn vật đón xuân. So với tết Thanh Minh tấp nập kẻ mua người bán, hay lễ Trung Nguyên tấp nập người qua lại thì Phiêu Miểu Các vừa qua lễ trừ tịch có phần vắng vẻ.

Ly Nô dựng một cây tre cao hơn mái nhà ở sân sau, phần dưới được chôn dưới đất, còn phần trên treo một lá cờ dài làm từ vải màu. Thứ này gọi là "phan."

Trong thành Trường An, nhà nhà đều treo phan sau đêm giao thừa để cầu phúc lộc và tránh tai ương. Phan không có hoa văn cụ thể, nhưng màu sắc phải rực rỡ, và càng dài càng tốt.

Ly Nô sáng tạo, cắt vài miếng vải màu, ghép thành một con cá chép lớn.

Bên ngoài đại môn Phiêu Miểu Các, Nguyên Diệu gỡ bùa đào cũ xuống và thay bằng bùa đào mới.

Bạch Cơ ngồi bên bàn ngọc xanh, đang vung bút viết nhanh, chấp bút lên một đống thiếp vàng đỏ, viết những câu như "Phúc gia nhập vận, thọ hưởng vô biên." Mùa xuân rét đậm, nàng không muốn ra ngoài, thường để hạc giấy đi gửi thiếp chúc Tết.

Viết một lúc, Bạch Cơ đã không muốn viết nữa, bắt đầu uống trà, ăn điểm tâm và chơi lục bác với Ly Nô.

Nguyên Diệu đành phải viết tiếp thay cho Bạch Cơ.

Vào mùng ba, Ly Nô bắt đầu chuẩn bị yến tiệc "Truyền Tọa"* trong bếp. Bạch Cơ vẫn lười ra ngoài, Nguyên Diệu đành kéo nàng ra ngoài, cùng đi chúc Tết với hàng xóm láng giềng và mời họ đến dự tiệc.

*Truyền tọa (传座): Là phong tục của người xưa, thường sau Tết Nguyên Đán, người ta mời hàng xóm đến nhà dự tiệc. Xuất xứ từ "Minh Báo Ký" quyển hạ: “Phong tục ở chợ Trường An, mỗi năm sau Tết Nguyên Đán, người dân lần lượt mời nhau ăn uống, gọi là truyền tọa.”

Sau hoàng hôn, những yêu ma quỷ quái đi ngang qua sẽ đến Phiêu Miểu Các ăn "Truyền Tọa," nói vài lời chúc Tết.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô ở Trường An không có thân thích lớn tuổi nào để đi lại, cũng chẳng có bạn bè đến thăm cho đến sau ngày "Nhân Nhật"* vào mùng bảy tháng Giêng.

* Nhân nhật (人日): Còn gọi là Nhân Tiết, Nhân Khánh Tiết, Nhân Khẩu Nhật, Nhân Thất Nhật,... Là một ngày lễ truyền thống của Trung Quốc, diễn ra vào ngày mồng bảy tháng Giêng Âm lịch hàng năm. Tương truyền, Nữ Oa sau khi tạo ra các loài gà, chó, heo, dê, bò, ngựa,... vào những ngày trước, đã tạo ra loài người vào ngày thứ bảy. Do đó, ngày này được coi là ngày sinh nhật của loài người.

Sau ngày mùng bảy tháng Giêng, Trường An bắt đầu tràn ngập không khí vui tươi, vì mọi người mong chờ lễ hội lớn trong năm. Lễ hội đèn lồng Nguyên Tiêu sắp diễn ra.

Vào những ngày trước và sau Tết Nguyên Tiêu, Trường An không còn giới nghiêm nữa, từ quý tộc đến dân thường đều có thể ra ngoài ngắm đèn vào ban đêm.

Vào dịp Tết Nguyên Tiêu, Trường An sẽ là một thành phố không ngủ, tràn ngập ánh sáng lung linh.

Nói chung, sau đêm giao thừa, mọi người bắt đầu làm những chiếc đèn lồng sẽ được treo vào Tết Nguyên Tiêu. Nếu muốn tinh xảo, khéo léo và giành chiến thắng trong cuộc thi đèn lồng, thì phải bắt tay vào làm từ tháng Chạp.

Phiêu Miểu Các treo đèn lồng lên nhưng chẳng mấy ai nhìn thấy, nên thông thường sau mùng bảy tháng Giêng, Ly Nô mới lười nhác làm một hai chiếc đèn sen và đèn tai mèo đơn giản để treo lên.

Theo thói quen, vào mùng mười tháng Giêng, Hồ Thập Tam Lang sẽ đến Phiêu Miểu Các chúc Tết, mang theo quà tặng đầu năm mới từ lão hồ vương gửi cho Bạch Cơ. Bạch Cơ cũng sẽ tặng lại vài món quà, đồng thời đưa cho Hồ Thập Tam Lang một chuỗi tiền áp thắng* được xâu thành hình con rồng bằng dây màu. Khi thấy Hồ Thập Tam Lang có chuỗi tiền, mà mình không có, Ly Nô không vui.

*Áp thắng tiền (压胜钱): Còn gọi là áp thắng tiền, áp thăng tiền, không phải là tiền lưu thông mà là loại tiền cổ dùng trong dân gian như một vật may mắn hoặc để trừ tà. Nó bắt nguồn từ thời Tây Hán, có thuyết cho rằng nó xuất hiện từ thời Chiến Quốc. Vào thời nhà Đường, người ta dùng đồng tiền lưu thông, kết lại thành hình rồng bằng dây đỏ, cũng có thể làm thành áp thắng tiền.

Bạch Cơ vì muốn yên ổn trong tháng Giêng, không muốn Ly Nô và Hồ Thập Tam Lang đánh nhau, nên khó khăn lắm mới hào phóng cho Ly Nô một chuỗi tiền.

Nguyên Diệu thấy vậy cũng đi tìm Bạch Cơ xin một chuỗi tiền.

Bạch Cơ không chịu cho, nói rằng: "Tiền áp thắng là dành cho trẻ con, Hiên Chi đã đến tuổi nhược quán rồi, qua rồi cái thời được nhận tiền áp thắng rồi."

"Ồ." Nguyên Diệu nghĩ nghĩ, lại thấy không đúng, nói: "Tiểu sinh chỉ mới nhược quán(20 tủi), Ly Nô lão đệ và Thập Tam Lang đã sống hơn ngàn năm, tuổi tiểu sinh còn nhỏ hơn chúng nó! Không có lý nào chúng nó được nhận tiền áp thắng, còn tiểu sinh thì không..."

Bạch Cơ nói: "Ừm, vì chúng nó đáng yêu hơn, còn Hiên Chi thì quá ngốc."

"Tiểu sinh ngốc chỗ nào?!"

"Từ đầu đến chân, chỗ nào cũng ngốc!"

"Bạch Cơ, tiền áp thắng của tiểu sinh..."

"Ôi dào, ngày Tết đừng có nói đến tiền..."

Thế là, Nguyên Diệu không nhận được tiền áp thắng.

Ở sân sau, Hồ Thập Tam Lang nhìn thấy chiếc đèn sen mà Ly Nô làm, thì cười lớn.

"Con mèo đen, đèn sen này ngươi làm thô quá, chẳng tinh xảo chút nào."

Ly Nô chống tay vào hông, nói: "Không tinh xảo chỗ nào?! Đồ hồ ly thối, có giỏi thì làm một chiếc đèn lồng cho gia xem!"

Hồ Thập Tam Lang nghĩ nghĩ, nói: "Còn năm ngày nữa là đến lễ hội đèn lồng Nguyên Tiêu, mỗ sẽ làm một chiếc đèn lồng cho con mèo đen này mở mang tầm mắt."

Ly Nô trừng mắt nói: "Hứ! Tay nghề của gia đây từng học từ Lỗ Ban! Lễ hội đèn lồng Nguyên Tiêu, chúng ta so đèn lồng, ngươi thua thì lấy tiền áp thắng mua cá khô cho ta!"

Hồ Thập Tam Lang nói: "Tại sao lại là mỗ thua? Đồ mèo đen thối, nếu ngươi thua thì lấy tiền áp thắng mua gà hồ lô cho ta!"

Ly Nô nói: "Được! Nhất ngôn cửu đỉnh!"

Hồ Thập Tam Lang lập tức trở về núi Thúy Hoa làm đèn lồng.

Ly Nô bắt đầu suy nghĩ cặn kẽ, dốc hết tâm trí, định làm một chiếc đèn lồng hoa lệ tuyệt luân.

Thời gian trôi qua thật nhanh, đã đến mười bốn tháng Giêng. Thành Trường An rộn ràng vui tươi, đêm nay giới nghiêm đã được dỡ bỏ, có thể bắt đầu du xuân ngắm đèn.

Trong dịp lễ hội đèn lồng Nguyên Tiêu, bất kể là vương hầu quý tộc hay dân thường, đều sẽ treo đèn lồng trước cửa nhà. Mỗi phường còn dựng lên các công trình như cây đèn, bánh xe đèn, đèn ô,... mô phỏng các ngọn núi tiên như Bồng Lai, Doanh Châu, Phương Trượng để mọi người thưởng thức khi ngắm đèn.

Ly Nô không ngủ không nghỉ, đã làm được một chiếc đèn lồng sen đuôi phượng.

Chiếc đèn lồng sen đuôi phượng làm rất tinh xảo, một đóa sen ngàn cánh được bao quanh bởi một cụm lông đuôi phượng hình trăng khuyết. Lông vũ của phượng hoàng sống động như thật, ánh sáng chiếu ra từ đó cũng là năm màu rực rỡ.

Đáng tiếc, đèn lồng sen đuôi phượng vẫn chưa hoàn thành.

Đêm nay, Ly Nô không định đi lễ hội đèn lồng, nó dự định thức đêm để hoàn thành, mong rằng đêm Nguyên Tiêu có thể đấu đèn lồng với Hồ Thập Tam Lang.

Nguyên Diệu đến mời Bạch Cơ, ban đầu Bạch Cơ đồng ý, nhưng buổi chiều nhận được một thiếp mời, nên đã thay đổi ý định.

"Hiên Chi, tối nay có một người bạn cũ từ núi Chương Vĩ đến thăm, ta e rằng không thể đi du xuân ngắm đèn cùng ngươi được."

"Ai đến vậy?"

"Một người bạn cũ. Nói ra, Hiên Chi cũng không biết."

"Được rồi, vậy tiểu sinh đành một mình đi ngắm đèn đêm nay vậy."

*

Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời vừa lặn, thành Trường An đã rộn rã tiếng trống, đèn đuốc sáng rực.

Vào lúc chạng vạng, mặt trời vừa khuất bóng, thành Trường An đã vang tiếng trống đinh tai nhức óc, đuốc đốt sáng rực cả mặt đất.

Sau khi ăn xong bữa tối, Bạch Cơ ngồi chờ vị khách tới thăm trong gian phòng, Ly Nô thì bận rộn làm đèn hoa, còn Nguyên Diệu một mình ra ngoài đi xem đèn lồng.

Bạch Cơ dặn dò: “Hiên Chi, dịp Tết Nguyên Tiêu này, ngày đêm đảo lộn, âm dương giao thoa, trên phố không chỉ có người, ngươi phải cẩn thận đó.”

“Ừ.”

Nguyên Diệu rời khỏi Phiêu Miểu Các, dạo bước giữa dòng người. Nghe nói trên phố Chu Tước huyên náo nhất, lại còn có cả diễu hành đèn lồng, nên hắn đi về phía Đông.

Trên phố Chu Tước, đèn sáng như ban ngày, xe cộ tấp nập, rất nhiều nghệ nhân biểu diễn trò phun lửa trên phố, thu hút đám đông đứng xem.

Nguyên Diệu len lỏi giữa biển người, chỉ thấy ánh đèn chói mắt, cảnh tượng ngợp trong ánh sáng, người người đều vui vẻ huyên náo, tiếng cười rộn rã khắp nơi.

Dù xung quanh rất huyên náo, nhưng không có Bạch Cơ và Ly Nô cùng đi, Nguyên Diệu một mình dạo phố cảm thấy hơi cô đơn.

Nghe nói quan phủ đã dựng một bánh xe đèn cao hơn hai mươi trượng bên ngoài cổng Xuân Minh, trang trí bằng gấm lụa, vàng ngọc, và tối mai vào đêm Nguyên Tiêu, năm vạn ngọn đèn sẽ được thắp sáng trên đó, trông vô cùng rực rỡ và xinh đẹp.

Nguyên Diệu thấy còn sớm nên định đi xem thử bánh xe đèn bên ngoài cổng Xuân Minh. Nếu bánh xe đẹp như lời đồn, tối mai hắn có thể cùng Bạch Cơ và Ly Nô thưởng ngoạn.

Nguyên Diệu bước về phía cổng Xuân Minh.

Khi đi ngang qua phường Sùng Nhân, Nguyên Diệu tình cờ gặp Vi Ngạn đang đi xem đèn.

Vi Ngạn đi một mình, không mang theo tùy tùng, hai người gặp nhau bất ngờ, sau khi chúc mừng năm mới thì họ cùng đi ngắm đèn.

“Hiên Chi, sao Bạch Cơ không đi xem đèn với ngươi?”

“Một người bạn cũ của nàng đến thăm, nàng ở lại tiếp khách. Đan Dương, sao ngươi cũng đi ngắm đèn một mình?”

“Đi một mình mới thú vị chứ! Mấy đêm nay nhiều mỹ nhân cũng sẽ ra ngoài dạo chơi, có khi lại gặp được một cuộc tình lãng mạn, mang theo nhiều người thì bất tiện.”

“Hả?!”

“Đi thôi, Hiên Chi, ta dẫn ngươi đi tìm tình duyên nào.”

“?!”

“Trời ạ, rốt cuộc thì nơi nào dễ gặp tình duyên nhỉ? Là chợ đêm ngoài chùa Thanh Long, hay là hội đèn lồng trong vườn Phù Dung, hoặc là đi thử vận may ở phố Chu Tước?”

“Đan Dương, ta phải đi xem bánh xe đèn bên ngoài cổng Xuân Minh, xem xong bánh xe ta phải quay về Phiêu Miểu Các rồi, không thể đi tìm tình duyên với ngươi được.”

“Ấy! Bánh xe đèn! Đã nghe nói lâu rồi, bên ngoài cổng Xuân Minh dựng một chiếc bánh xe đèn cao hơn hai mươi trượng, vô cùng đẹp và tráng lệ. Mỹ nhân nhất định sẽ tới ngắm bánh xe đèn, bên ngoài cổng Xuân Minh nhất định có nhiều tình duyên… Ta đi cùng Hiên Chi!”

“Ờ… được thôi…”

Nguyên Diệu và Vi Ngạn cùng nhau đi về phía cổng Xuân Minh.

*

Tiết Lập Xuân đã qua nửa tháng, khí xuân bắt đầu nảy nở, hoa mai trắng nở rộ. Bên ngoài cổng Xuân Minh, người qua lại đông đúc, đèn đuốc sáng rực như biển lửa.

Một chiếc đèn lồng khổng lồ cao hơn hai mươi trượng được dựng lên, trông như một ngọn núi tiên hùng vĩ, vươn cao lên trời. Chiếc đèn lồng này có các nhánh đèn tỏa ra bốn phía như cành cây, có thể xoay tròn, và trên các nhánh này treo hơn năm vạn ngọn đèn với đủ hình dáng và màu sắc khác nhau. Lúc này, chiếc đèn lồng vẫn chưa hoàn thành, một số thợ thủ công vẫn đang bận rộn treo thêm đèn lồng lên trên. Nguyên Diệu không khỏi kinh ngạc trước cảnh tượng này.

Nếu năm vạn ngọn đèn cùng được thắp sáng và chiếc đèn lồng khổng lồ này quay tròn, chắc chắn sẽ là một cảnh tượng vô cùng đẹp đẽ và hùng vĩ. Ngày mai, nhất định phải dẫn Bạch Cơ đến đây để cùng thưởng thức cảnh đẹp này.

Vi Ngạn nhìn quanh đám đông nhưng không thấy dấu hiệu của cuộc gặp gỡ tình cờ nào, không khỏi cảm thấy chán nản.

Không xa ngoài cổng Xuân Minh là một rừng hoa mai trắng. Từ xa, Vi Ngạn nhìn thấy một ánh sáng đỏ kỳ lạ lóe lên từ phía rừng hoa mai trắng đó. Ánh sáng đỏ đó mờ ảo, chập chờn, tỏa ra một sức hút bí ẩn.

Không hiểu sao, Vi Ngạn không tự chủ được mà tiến về phía rừng hoa mai trắng.

Giữa dòng người đông đúc và ánh đèn lấp lánh, Nguyên Diệu mải mê ngước nhìn chiếc đèn lồng mà không hề nhận ra Vi Ngạn đã rời đi.

Ánh trăng soi chiếu lên cây hoa, gió đêm thoảng qua mang theo hương thơm của hoa mai.

Vi Ngạn bước đi trong rừng hoa mai, từng cánh hoa bay quanh người, ánh trăng mờ ảo hóa thành một làn sương mỏng mềm mại bao quanh hắn.

Trong không gian vang lên tiếng nước chảy róc rách, dường như có một con suối.

Rõ ràng là trong rừng mai trắng này không có con suối nào, tại sao lại có tiếng nước chảy?

Khi Vi Ngạn còn đang băn khoăn, trước mắt hắn đột nhiên xuất hiện một dòng suối trong veo như dải ngọc.

Phía thượng nguồn của dòng suối, cạnh rừng hoa mai có một ngôi nhà tranh nhỏ.

Hoa mai trắng như tuyết, ngôi nhà tranh xanh tươi, và một thiếu nữ mặc áo đỏ đang tựa vào lan can, đối diện với ánh trăng, như đang trầm tư.

Thiếu nữ áo đỏ có mái tóc đen như mực, làn da trắng hơn tuyết, dáng người uyển chuyển. Nàng thắt một chiếc đai ngọc bích quanh eo, và trên đó còn treo một chiếc túi thơm màu đỏ có tua rua. Bộ y phục đỏ của nàng hòa cùng ánh trăng và hoa mai trắng, trông như một bức tranh tuyệt đẹp.

“Ồ! Một cuộc gặp gỡ tình cờ…” Vi Ngạn không thể kiềm chế mà tiến về phía ngôi nhà tranh.

Thiếu nữ áo đỏ cảm nhận có người đến gần, bèn quay đầu lại.

Dưới ánh trăng, thiếu nữ áo đỏ có đôi mày như lông chim xanh, làn da như tuyết trắng, quả là một tuyệt sắc giai nhân. Nàng búi tóc kiểu Linh Xà, trang điểm hoa mai trên trán, đôi mắt đen nhánh như đêm, đôi môi đỏ như máu.

Thiếu nữ áo đỏ nhìn Vi Ngạn và nở một nụ cười nhẹ.

Vi Ngạn cúi chào.

“Cô nương sao lại một mình ngắm trăng ở đây thế?”

Thiếu nữ áo đỏ khẽ mở miệng nhưng lại lắc đầu, dường như không biết nói.

Thì ra, nàng là một cô gái câm.

Mắt Vi Ngạn xoay chuyển, nói: “Đêm đẹp thế này, cô nương ở đây một mình, ta cũng chỉ có một mình. Hay là cùng nhau thưởng hoa ngắm trăng, xem đèn dạo đêm?”

Thiếu nữ áo đỏ mỉm cười nhẹ, lắc đầu. Nàng đứng dậy, uốn éo eo thon rồi bước vào trong ngôi nhà tranh, còn đóng cửa lại.

Xem ra, đã bị từ chối rồi!

Vi Ngạn có chút không cam tâm, bản thân anh tuấn, phong độ ngời ngời, làm sao lại bị mỹ nhân từ chối được?

Vi Ngạn đuổi theo, muốn tìm thiếu nữ áo đỏ để nói chuyện cho ra lẽ.

Khi Vi Ngạn định gõ cửa, vô tình nhìn xuống đất, hắn thấy một chiếc túi thơm có tua rua màu đỏ rơi trên mặt đất.

Có vẻ như là do cô nương vừa nãy không cẩn thận đánh rơi khi bước vào trong ngôi nhà tranh.

Không, có lẽ nàng cố tình để lại, đây là tín vật định tình dành cho ta. Vi Ngạn thầm nghĩ.

Vi Ngạn nhặt chiếc túi thơm, cất vào trong tay áo.

Ánh trăng mờ ảo, rừng cây tối tăm, xung quanh truyền đến âm thanh loạt soạt, như thể có thứ gì đó đang bò trườn.

Vi Ngạn quay đầu nhìn xung quanh, trong bóng tối không xa có một cái bóng khổng lồ đang lướt qua. Đó là một con mãng xà to như thân cây, nhưng lại có đôi cánh, toàn thân phát ra ánh sáng đỏ kỳ dị. Vi Ngạn sợ hãi, không dám nhúc nhích.

May mắn thay, con quái vật hình rắn đó chỉ đi qua, không lâu sau đã dần dần biến mất, không còn tung tích.

Vi Ngạn thở phào nhẹ nhõm, vẫn nhớ đến thiếu nữ áo đỏ, bèn quay lại muốn gõ cửa ngôi nhà tranh.

Dưới ánh trăng, hoa mai trắng hơn tuyết, mấy cây mai lặng lẽ đứng yên trong gió đêm.

Đâu có ngôi nhà tranh nào? Đâu có thiếu nữ áo đỏ nào? Ngay cả con suối róc rách cũng đã biến mất không dấu vết.

Gặp ma rồi! Vi Ngạn thầm nghĩ.

Ở bên kia, Nguyên Diệu nhận ra Vi Ngạn đã biến mất, không biết hắn đã đi đâu, rất lo lắng, liền đi tìm trong đám đông.

Tìm một hồi lâu, khi Nguyên Diệu định từ bỏ, bỗng thấy Vi Ngạn mơ hồ đi trong đám đông.

Nguyên Diệu vội vàng bước tới, hỏi: “Đan Dương đi đâu vậy?”

Vi Ngạn tỉnh lại, đáp: “Hiên Chi, vừa rồi ta gặp một mỹ nhân áo đỏ, định mời nàng cùng dạo đêm, nhưng lại bị từ chối.”

Nguyên Diệu an ủi: “Đời người có nhiều chuyện không như ý, Đan Dương đừng buồn.”

Ánh mắt Vi Ngạn lóe lên tia sáng cuồng nhiệt kỳ lạ.

“Ta không buồn, ta thấy rất hưng phấn! Hiên Chi, nàng ấy có thể là yêu quái! Ta lại có duyên gặp một nữ yêu quái, đây thật là một cuộc kỳ ngộ hiếm có, còn thú vị hơn cả cuộc gặp gỡ tình cờ!”

“Hiên Chi, nàng ấy còn tặng ta một chiếc túi thơm! Túi thơm do yêu quái tặng, ta nhất định phải cất giữ kỹ!”

“…..”

“Hiên Chi, có phải ta nên tặng nàng một món quà đáp lễ không? Ngươi nói xem nên tặng gì? Trâm ngọc? Hay là son phấn?”

“…..”

“Hiên Chi nghĩ ngày mai ta có thể gặp lại nàng không?”

“….. Có lẽ có thể gặp lại.”

Vi Ngạn rất hưng phấn, còn đưa chiếc túi thơm ra để Nguyên Diệu xem.

Khoảnh khắc tay Nguyên Diệu chạm vào túi thơm, trước mắt lập tức tối sầm lại.

Một cơn sóng lớn từ chân trời cuồn cuộn dâng lên, nước lũ ngập tràn, cuốn về phía thành Trường An, dường như sắp nhấn chìm cả một trăm mười phường.

“Á...” Nguyên Diệu giật mình, tỉnh lại. Tay run lên, chiếc túi thơm rơi xuống đất.

Hoa đăng rực rỡ, đèn lồng chiếu sáng đêm, trước mắt Nguyên Diệu vẫn là cảnh tượng hội đèn lồng đêm rằm.

Cảnh tượng lũ lụt vừa rồi chỉ là ảo giác.

Kỳ lạ thật, tại sao giữa lúc này lại xuất hiện ảo giác về lũ lụt nhấn chìm Trường An? Chẳng lẽ là do chiếc túi thơm gây ra?

Nguyên Diệu cảm thấy trong lòng bất an.

Vi Ngạn cúi người nhặt chiếc túi thơm lên, nói: “Hiên Chi làm gì mà hoảng hốt như vậy, còn ném chiếc túi thơm mà mỹ nhân đã tặng cho ta xuống đất nữa?”

Nguyên Diệu vẫn chưa hết sợ hãi vì ảo giác về lũ lụt, không kịp để ý đến Vi Ngạn, lại đưa tay chạm vào chiếc túi thơm, nhưng lần này lại không thấy ảo giác nào nữa.

Chuyện này là sao? Nguyên Diệu gãi đầu, cảm thấy bối rối.

Vi Ngạn mân mê chiếc túi thơm, rồi mở ra, bên trong có một viên ngọc đỏ.

Viên ngọc đỏ giống như thủy tinh, cũng giống như trân châu, tỏa ra ánh sáng lung linh, vô cùng đẹp mắt.

Vi Ngạn cầm viên ngọc đỏ lên, nói: “Đây là trân châu đỏ sao? Ta chưa từng thấy bao giờ.”

Nguyên Diệu quan sát một lúc, cũng không biết viên ngọc đỏ là thứ gì.

Sau khi ngắm đèn xong, Nguyên Diệu và Vi Ngạn cùng nhau trở về thành. Vi Ngạn trở về Vi phủ, còn Nguyên Diệu trở lại Phiêu Miểu Các.

Trong Phiêu Miểu Các, đèn đuốc sáng trưng.

Khách khứa đã rời đi, Bạch Cơ ngồi một mình trong phòng, vừa uống trà vừa đọc sách.

Ly Nô vẫn đang bận rộn dán lớp lụa màu cuối cùng lên chiếc đèn hoa sen ở sân sau.

Nguyên Diệu bước vào phòng trong.

Bạch Cơ ngẩng đầu lên, cười nói: “Sao hôm nay Hiên Chi về sớm vậy? Bên ngoài có vui không?”

Nguyên Diệu ngồi xuống đối diện với Bạch Cơ, nói: “Khá là vui, bên ngoài cổng Xuân Minh dựng một vòng đèn khổng lồ, ngày mai ngươi và Ly Nô nhất định phải đi xem. Vòng đèn có thể thắp sáng năm vạn chiếc đèn, rất tráng lệ.”

Bạch Cơ cười mà không nói gì.

Nguyên Diệu nói: “Bạch Cơ hình như không hứng thú với hội đèn lồng lắm nhỉ?”

Bạch Cơ cười nói: “Ta đã xem hội đèn lồng rất nhiều lần, chỉ là người đông đúc, đèn đuốc sáng rực, đã sớm thấy chán rồi. Nhưng năm nay có Hiên Chi, lại có vòng đèn lớn, chắc sẽ thú vị lắm, tối mai chúng ta cùng đi dạo nhé.”

Nguyên Diệu cười nói: “Ừm ừm, mai cùng đi xem vòng đèn lớn. Đúng rồi, vị bạn cũ của ngươi đi rồi sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Ngồi một lát, nói vài câu rồi đi.”

“Bạn cũ của ngươi cũng là rồng sao? Hay là một loài phi nhân nào khác?”

Bạch Cơ nghĩ một chút, nói: “Chúc Long, chắc cũng được xem là rồng nhỉ?”

“À, Chúc Long?! Là thần rắn mặt người trong truyền thuyết, dài ngàn dặm, mở mắt là ban ngày, nhắm mắt là ban đêm sao?”

Nguyên Diệu giật mình, không khỏi hối hận. Biết sớm rằng người đến là Chúc Long, một thần thú thượng cổ trong truyền thuyết, hắn đã không đi xem hội đèn, mà ở lại để mở rộng tầm mắt rồi.

Bạch Cơ cười nói: “Đúng vậy. Người mặt rắn, dài đi ngàn dặm là thật, nhưng ‘mở mắt là ban ngày, nhắm mắt là ban đêm’ thì có phần hơi phóng đại. A Cửu không giỏi thuật đêm ngày, chỉ có thể thi triển trong phạm vi núi Chương Vĩ mà thôi. Nhưng thường thì hắn cũng không rời khỏi núi Chương Vĩ đâu.”

“Không rời khỏi núi Chương Vĩ? Vậy sao Chúc Long lại đến Phiêu Miểu Các?”

Nguyên Diệu tiếp tục cảm thấy lo lắng vì những ảo giác kỳ lạ về lũ lụt vừa rồi. Tại sao lại xuất hiện ảo giác về lũ lụt nhấn chìm An Thành? Chẳng lẽ do chiếc túi thơm gây ra?

Nguyên Diệu lòng đầy bất an.

“Hắn có việc đi ngang qua Trường An, nhớ rằng đã nhiều năm không gặp nên nhân tiện ghé qua Phiêu Miểu các ngồi một lúc, tán gẫu vài câu với ta.”

“Bạch Cơ đã quen biết Chúc Long từ lâu rồi sao?”

Bạch Cơ nheo mắt nhớ lại, nói: “Ta quen A Cửu lâu lắm rồi, lâu đến nỗi ta cũng không nhớ rõ là bao nhiêu năm nữa… Giữa biển khơi, có một đảo tù long, trên đảo có nhiều trứng rồng, rồng nở ra từ trứng rồng. Một con Đại Bàng Kim Sí, thỉnh thoảng sẽ bay đến đảo tù long, ăn mất một trăm con thiên long. Những thiên long sinh ra trên đảo tù long đều là thức ăn của Đại Bàng Kim Sí. Ta sinh ra ở đảo tù long, cũng là thức ăn của Kim Sí, từ khi biết nhận thức, ta đã phải rất vất vả để sống sót, không bị Kim Sí ăn thịt. Sau đó A Cửu xuất hiện, mang ta rời khỏi đảo tù long.”

Nguyên Diệu nghe đến đây mà lòng đau xót, hắn đã từng thấy đảo tù long trong giấc mộng phù sinh, từng thấy Đại Bàng Kim Sí, cũng từng thấy Bạch Cơ lúc nhỏ, không khỏi thương cảm cho sự khổ cực của nàng.

“Vậy có nghĩa là Chúc Long là ân nhân của Bạch Cơ?”

Bạch Cơ trầm ngâm một lát, rồi nói: “Thế sự phức tạp, lòng người khó đoán, không thể chỉ dùng một từ ‘ân nhân’ hay ‘cừu nhân’ mà miêu tả. Khi đó, trời đất mới khai mở, các thần linh giao tranh, thế gian rơi vào trạng thái vô trật tự, khắp nơi là những cuộc tàn sát khốc liệt để giành lấy sức mạnh. Ta, A Cửu và Băng Di cùng nhau sinh tồn trong hồng hoang hỗn độn, là bạn bè. Sau này, khi ba chúng ta đến Long Uyên để tìm kiếm sức mạnh của Bàn Cổ, Băng Di chết ở Côn Lôn, ta và A Cửu trở mặt thành thù, ta rời khỏi đất liền, trở về biển, trở thành vua của long tộc. Nhiều năm sau, vì lý do liên quan đến Long Ẩn, ta và A Cửu mới hóa giải hiềm khích, lại trở thành bạn tốt. Những năm gần đây, cũng đã gỡ bỏ nút thắt trong lòng, bình thường qua lại như bạn cũ.”

Nguyên Diệu rất ít khi nghe Bạch Cơ kể về quá khứ của mình, trong lòng vô cùng tò mò, không kiềm lòng được mà hỏi: “Băng Di là ai? Tại sao hắn lại chết? Ngươi và Chúc Long tại sao lại trở mặt thành thù?”

Bạch Cơ ánh mắt trầm xuống, đáp: “Băng Di cũng là rồng, hắn sinh ra trên đỉnh Côn Lôn. Trong thời đại man hoang ấy, đầy rẫy sức mạnh tà ác, ta, A Cửu và Băng Di cùng nhau sinh tồn. Băng Di… là do ta giết chết. A Cửu nói ta là một con quái vật không có trái tim, hắn hối hận vì đã mang ta ra khỏi đảo tù long, nên chúng ta trở mặt thành thù.”

“Tại sao ngươi lại giết Băng Di?! Hắn là bạn của ngươi mà!”

Bạch Cơ rơi vào hồi tưởng, thần sắc trở nên u ám.

“Lúc đó tình hình rất nguy cấp, Băng Di bị sức mạnh tà ác của Long Uyên nuốt chửng, nếu không giết hắn, hắn sẽ hóa thành cuồng ma, ta và A Cửu đều sẽ chết.”

“…Bạch Cơ, chuyện này không phải lỗi của ngươi, ngươi đừng tự trách nữa.”

“Hiên Chi, ta chưa bao giờ tự trách, dù A Cửu vì thế mà trở mặt với ta, ta cũng không nghĩ mình đã làm sai điều gì. Trong tình huống đó, phải quyết đoán, không được do dự. Nhưng, những năm gần đây nghĩ về cái chết của Băng Di, nhớ lại nụ cười của hắn trước khi chết, ta vẫn cảm thấy có chút đau lòng. Đôi khi, nghĩ về những năm tháng khó khăn cùng A Cửu và Băng Di sinh tồn, cũng như những chuyện đã xảy ra, thật giống như một giấc mộng dài trong buổi trưa hè.”

“Bạch Cơ, đừng mãi vướng vào những chuyện đã qua trong mộng nữa, bây giờ ngươi có tiểu sinh và Ly Nô bên cạnh, phải vui vẻ mà sống. Tiểu sinh không nên hỏi nhiều như vậy, ngươi cũng đừng nghĩ nhiều nữa. Đúng rồi, kể cho ngươi nghe một chuyện thú vị, hôm nay tiểu sinh gặp được Đan Dương, cùng hắn ngắm đèn, hắn gặp gỡ một mỹ nhân, muốn mời mỹ nhân cùng đi dạo đêm nhưng lại bị từ chối.”

“Phì! Vị mỹ nhân này quả là rất sáng suốt.”

“Vị giai nhân này từ chối Đan Dương, nhưng lại tặng cho hắn một chiếc túi thơm định tình. Làm sao có chuyện từ chối rồi lại tặng tín vật định tình? Tiểu sinh không hiểu giai nhân này có ý gì.”

“Hiên Chi có tận mắt thấy vị mỹ nhân ấy tặng túi thơm cho Vi công tử không?”

“Không, Đan Dương nói vậy.”

Bạch Cơ nghĩ một lúc rồi cười.

“Làm gì có chuyện mỹ nhân từ chối cầu ái, rồi lại tặng tín vật định tình? Chiếc túi thơm này không phải do Vi công tử lén lấy, thì cũng là do mỹ nhân vô tình làm rơi, mà Vi công tử nhặt được.”

“Thì ra là vậy!”

Nguyên Diệu bừng tỉnh ngộ. Hắn nhớ lại viên châu đỏ trong túi thơm, viên châu đỏ ấy trông rất quý giá, giai nhân mà mất viên châu này chắc hẳn sẽ rất lo lắng. Nếu không phải do giai nhân tặng, thì ngày mai hắn phải đến Vi phủ, khuyên Vi Ngạn tìm cách trả túi thơm về cho chủ cũ.

“À, Hiên Chi, A Cửu nói hắn mang theo một nữ tỳ, lưu lại ở ngoài thành. A Cửu đi đâu cũng có nữ tỳ hầu hạ, ta là vua của bốn biển, vua của long tộc, sao có thể để thua kém hắn? Ngươi nói ta có nên đi mua vài nô lệ Côn Lôn, nữ tỳ Tân La không?”*

* 新罗婢: Nữ tỳ Triều Tiên. Thời Đường có câu “昆仑奴,新罗婢” (Côn Lôn nô, Tân La tỳ), tức là nữ tỳ từ Tân La (Triều Tiên) rất ngoan ngoãn, chăm chỉ; nô lệ từ Côn Lôn (khu vực Tây Nam châu Á) rất khỏe mạnh, trung thành. Thời Đường, nữ tỳ Tân La và nô lệ Côn Lôn rất được ưa chuộng, các quan lại giàu có tranh nhau mua.

Bạch Cơ hỏi một cách nghiêm túc.

Nguyên Diệu suy nghĩ rồi đáp: “Tháng giêng, nô lệ Côn Lôn, nữ tỳ Tân La đều tăng giá, mỗi người giá đến hơn hai mươi lượng bạc. Để đến tháng tư mua, giá chỉ còn mười lăm lượng thôi. Bạch Cơ, nếu ngươi mua nô lệ Côn Lôn, nữ tỳ Tân La thì tiểu sinh cũng sẽ đỡ vất vả hơn đấy.”

“Ừm, đắt quá. Nô lệ Côn Lôn, nữ tỳ Tân La còn phải ăn uống, mặc đồ, ốm đau, tốn bạc quá. Thôi, không mua nữa.”

Bạch Cơ tính toán kỹ lưỡng rồi quyết định từ bỏ.

“Hay là mua một người cũng được. Tiểu sinh sẽ lo việc ghi sổ, giao hàng, còn Ly Nô lo việc đi chợ, nấu cơm, quét dọn, giặt giũ và những việc lặt vặt khác cần một người để làm.”

“Những việc lặt vặt đó ngươi và Ly Nô phân chia làm là được rồi. Dù sao cũng không có nhiều việc, cứ tạm như thế mà sống thôi.”

“Oáp… buồn ngủ quá, ta lên lầu đi ngủ đây.”

Bạch Cơ đứng lên, chúc Nguyên Diệu ngủ ngon rồi lên lầu ngủ.

Nguyên Diệu sau khi rửa mặt, cũng chúc Ly Nô, người đang ở hậu viện dán đèn lồng, nói ngủ ngon rồi cũng đi ngủ.

Rằm tháng giêng, trong thành Trường An đèn đuốc sáng rực, vô cùng huyên náo, mọi người còn hứng khởi hơn cả đêm giao thừa.

Ly Nô đã hoàn thành đèn hoa sen đuôi phượng, lòng chỉ mong chờ Hồ Thập Tam Lang đến, tối có thể cùng đi đấu đèn.

Cả buổi sáng, Bạch Cơ đều bận rộn lựa chọn trang phục cho lễ hội đêm, thay mấy bộ quần áo rồi, cuối cùng quyết định mặc hồ phục, cải trang thành nam nhân.

Nguyên Diệu nghĩ rằng sau rằm tháng giêng, công việc sẽ bận rộn hơn, nên dọn dẹp lại Phiêu Miểu các, sắp xếp lại các kệ hàng, và kiểm tra sổ sách.

Đến trưa, Ly Nô ra phố mua về ít bánh rán, ba người ăn một ít, coi như bữa trưa.

Ăn trưa xong, Bạch Cơ lên lầu ngủ trưa, Ly Nô không có việc gì làm nên ra phố ngắm các loại đèn lồng treo ngoài cửa từng nhà.

Nguyên Diệu định ra ngoài tìm Vi Ngạn, thì Vi Ngạn lại đến. Vi Ngạn mặc một bộ hồ phục tay hẹp mới tinh màu đen, thắt lưng đeo đai ngọc trắng, trông như ngọc thụ lâm phong, phong lưu phóng khoáng.

“Hiên Chi, Bạch Cơ đâu?”

“Bạch Cơ đang ngủ trưa trên lầu. Đan Dương, sao ngươi lại đến đây?”

Vi Ngạn bước vào gian trong, ngồi xuống bên cạnh bàn ngọc xanh, nói: “Hiên Chi, ta suy nghĩ cả đêm, vẫn chưa biết nên tặng gì làm quà đáp lễ cho mỹ nhân yêu quái ấy. Bạch Cơ dù sao cũng là nữ tử, lại là yêu quái, ta muốn hỏi ý kiến nàng.”

“Hỏi ý kiến Bạch Cơ sao? Nàng tham tiền như mạng, sợ rằng sẽ khuyên ngươi tặng bạc thôi. Đúng rồi, Đan Dương, chiếc túi thơm đó có phải là do giai nhân yêu quái ấy tự tay tặng ngươi không?”

“Không phải. Nàng ngại không dám tự tay tặng, nên lén ném xuống đất, ta nhặt lên.”

“Đan Dương, thứ cho tiểu sinh nói một câu, ngươi đừng giận, có khi nào ngươi hiểu lầm không? Vị giai nhân ấy chỉ là vô tình làm rơi túi thơm, ngươi nhặt được, chứ không có ý tặng ngươi đâu.”

“Sao có thể như vậy?! Ta phong độ phi phàm, phong thái ngời ngời, mỹ nhân sao lại từ chối ta, còn không tặng túi thơm cho ta?”

“Ngươi… ngươi nên trả túi thơm lại cho người ta. Viên châu trong túi thơm trông rất khác thường, giai nhân mất nó chắc hẳn rất lo lắng.”

“…túi thơm thật sự không phải do nàng tặng ta sao?”

“Có lẽ là không. Làm gì có chuyện từ chối ngươi rồi lại tặng túi thơm? Chắc chắn vị giai nhân ấy vô tình đánh rơi thôi.”

Vi Ngạn suy nghĩ một lúc rồi nói: “Cũng được, vậy thì không cần phải đau đầu nghĩ quà đáp lễ nữa. Nếu túi thơm này quan trọng thì nàng nhất định sẽ tìm lại ở ngoài cửa Xuân Minh… Tối nay nếu gặp lại nàng, ta sẽ nhân cơ hội trả túi thơm, còn có thể mời nàng cùng đi dạo đêm lần nữa.”

“Đan Dương, người ta không muốn cùng ngươi dạo đêm, ngươi đừng cố chấp nữa. Nếu ngươi muốn gặp giai nhân, hội đèn còn nhiều mỹ nhân khác để ngươi mời mà.”

“Tối qua nàng không muốn nhưng biết đâu tối nay lại đồng ý. Ta anh tuấn phong lưu như vậy, nàng không có lý do gì từ chối ta, nếu từ chối, ta nhất định phải lý luận với nàng một phen.”

“Đan Dương, chuyện này không thể lý luận được đâu…”

“Tóm lại, tối nay ta sẽ ra cửa Xuân Minh, gặp nàng một lần nữa.”

Vi Ngạn quyết định chắc chắn, cũng không chờ Bạch Cơ tỉnh dậy, rồi quay về.