Tín Đồ Shopping Lấy Chồng
Chương 16
KHI VỀ đến nhà, tôi bình tĩnh đến ngạc nhiên. Thực ra, tôi gần như cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi đã thử mọi thứ - và giờ tôi cùng đường rồi. Tôi chẳng thể làm gì nữa ngoài việc tự thú mọi chuyện với Luke. Anh sẽ bị sốc. Cả tức giận nữa. Nhưng ít nhất thì anh sẽ biết.
Tôi ghé qua một quán cà phê trên đường về, uống cà phê và suy nghĩ thật thận trọng xem sẽ nói cho anh biết như thế nào. Bởi vì, mọi người biết đấy, tất cả đều nằm ở phần trình bày. Khi tổng thổng sắp tăng thuế, ông ta không nói, “Tôi sẽ tăng thuế.” Ông ta nói “Mọi công dân Mỹ đều biết giá trị của giáo dục.” Thế là tôi đã viết ra cả một bài diễn văn cho bản thân, hơi giống bài nói ở Quốc hội, và tôi học thuộc lòng từng câu từng chữ, với những khoảng ngắt giọng dành chỗ cho những thán từ của Luke. (Hoặc vỗ tay. Dù điều đó chắc là không thể xảy ra.) Chỉ cần tôi bám sát bài viết, và không ai hỏi về chính sách đối với Uganda thì chúng ra sẽ ổn cả thôi.
Chân tôi hơi run khi trèo lên cầu thang về căn hộ chúng tôi, dù Luke vẫn chưa đi làm về; tôi vẫn có thời gian để chuẩn bị. Nhưng khi tôi mở cửa, choáng váng, anh đã ở đó, đang ngồi ở bàn với một tập giấy tờ.
Được rồi Becky, lên nào. Thưa các quý ông quý bà thành viên Quốc Hội. Bốn điểm và những thứ mà tôi quên mất tiêu rồi. Tôi để cánh cửa tự đóng sau lưng mình, lấy tờ giấy ra và hít một hơi thật sâu.
“Luke,” tôi bắt đầu với giọng thật trưởng thành và trang nghiêm. “Em có vài điều muốn nói với anh về đám cưới. Đó là một vấn đề khá nghiêm trọng, mà không có giải pháp nào dễ dàng cả. Nếu có một giải pháp, thì đó là giải pháp chỉ có thể thực hiện được với sự giúp đỡ của anh. Đó là lý do hây giờ em sẽ nói cho anh biết điều này - và mong anh lắng nghe bằng một suy nghĩ rộng lượng. ”
Cho tới giờ mọi chuyện đều ổn. Tôi thực sự khá tự hào về điều đó. Phần “lắng nghe với suy nghĩ rộng lượng” thì đặc biệt sáng tạo, vì nó có nghĩa anh sẽ không thể quát mắng tôi.
“Để giải thích rõ tình thế khó khăn hiện nay của mình,” tôi tiếp tục, “em sẽ phải đưa anh trở về quá khứ. về lúc khởi điểm mọi chuyện. Nói vậy em không có ý là thuở hồng hoang hình thành trái đất đâu nhé. Thậm chí không phải là vụ nổ Big Bang. Mà là bữa tiệc trà ở Claridges.”
Tôi ngập ngừng - nhưng Luke vẫn yên lặng lắng nghe. Có lẽ chuyện này sẽ ổn thôi.
“Chính nơi đó, ở Claridges, rắc rối của em bắt đầu. Em đã được đề nghị một nhiệm vụ bất khả thi. Em là vị thần Hi Lạp buộc phải lựa chọn giữa 3 quả táo. Ngoại trừ việc chỉ có hai - và chúng không phải là táo.” Tôi dừng lại đầy ẩn ý. “Chúng là hai đám cưới”
Cuối cùng thì Luke cũng quay lại trên chiếc ghế. Mắt anh đỏ ngầu, và trên khuôn mặt anh có vẻ lạ lùng. Khi anh nhìn tôi chằm chằm, tôi thấy sợ.
“Becky,” anh nói như thể với một nỗ lực lớn.
“Vâng?” tôi hít không khí vào.
“Em có nghĩ rằng mẹ anh yêu anh không?”
“Gì cơ?” tôi bối rối nói.
“Nói thật cho anh biết. Em có nghĩ là mẹ yêu anh không?”
Khoan đã. Anh ấy có nghe được từ nào mà tôi nói nãy giờ không đấy? “Đương nhiên là có!” tôi nói. “Và nói về các bà mẹ, thì xét theo một chiều hướng nào đó, nguồn gốc vấn đề của em nằm ở...”
“Anh là một thằng ngốc.” Luke cầm kính lên và tợp một ngụm cái thứ trông có vẻ giống whisky. “Bà chỉ lợi dụng anh thôi, đúng không?”
Tôi bối rối nhìn anh - rồi để ý thấy chai rượu vơi một nửa trên bàn. Anh đã ngồi đây bao lâu rồi thế này? Tôi nhìn khuôn mặt anh lần nữa, căng ra và tổn thương, như đang gặm nhấm một số điều mà tôi có thể đã nói về Elinor.
“Đương nhiên là bà yêu anh!” tôi bỏ bài diễn thuyết của mình xuống và đến bên anh. “Em chắc là có. Ý em là, anh có thể thấy được mà, từ cái cách bà... ừm...” tôi ấp úng yếu ớt.
Tôi nên nói gì đây? Cái cách mà bà ta dùng nhân viên của anh mà không hề báo đáp hay cảm ơn. Cái cách bà ta đâm sau lưng anh rồi biến đi Thụy Sĩ?
“Chuyện gì... sao anh lại...” Tôi ngập ngừng hỏi. “Đã có chuyện gì xảy ra sao?”
“Anh thật ngu ngốc.” Anh lắc đầu. “Từ trước đó anh đã nảy ra vài điều.” Anh hít thở thật sâu. “Anh đã tới căn hộ của bà để lấy vài giấy tờ cho Quỹ. Và anh chẳng biết vì sao - có thể là sau khi xem những bức ảnh Suze và Ernie lúc sáng.” Anh ngước lên. “Nhưng anh thấy mình lục khắp phòng làm việc của bà để tìm kiếm những bức ảnh cũ. Ảnh anh hồi bé. Ảnh hai mẹ con. Anh thực sự không biết mình đang tìm kiếm cái gì nữa. Bất cứ thứ gì, anh đoán vậy.”
“Anh có tìm thấy gì không?”
Luke ra hiệu về phía những giấy tờ bày bừa trên bàn và tôi lúng túng liếc nhìn ngay lập tức. “Chúng là gì vậy?”
“Là thư. Do bố anh gửi. Những lá thư ông ấy viết cho mẹ sau khi họ chia tay, 15, 20 năm trước, cầu xin bà hãy gặp anh.” Giọng anh vô cảm còn tôi thì thận trọng nhìn anh.
“Nghĩa là sao?”
“Ý anh muốn nói là ông đã van xin bà tới thăm anh,” giọng Luke đều đều. “Ông đề nghị sẽ thanh toán hóa đơn khách sạn. Ông đề nghị là sẽ đi cùng anh. Ông yêu cầu hết lần này tới lần khác... và anh đã không biết điều đó.” Anh với tay lấy vài tờ rồi đưa cho tôi. “Đấy, em tự đọc đi.”
Cố giấu sự choáng váng, tôi bắt đầu đọc lướt chung, nhập vào đầu vài cụm từ chỗ này chỗ kia.
Luke muốn gặp mẹ nó đến tuyệt vọng... không thể hiểu nổi thái độ của cô...
“Những lá thư này giải thích rất nhiều điều. Hóa ra người chồng mới của bà không hề ngăn bà đưa anh đi cùng họ. Ông ấy có vẻ là một người rất tử tế. Ồng ấy đồng tình với bố anh rằng anh nên đến chơi. Nhưng bà ấy không thích.” Anh nhún vai. “Mà anh nghĩ sao bà ấy lại phải muốn nhỉ?”
...một cậu bé thông minh đáng yêu... đang bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời...
“Luke, chuyện này... thật kinh khủng,” tôi nói không thỏa đáng lắm.
“Điều tồi tệ nhất là, anh đã luôn trút hết lên bố mẹ anh. Khi anh còn nhỏ. Anh đã luôn đổ lỗi cho họ.”
Tôi đột nhiên thấy cảnh Annabel và khuôn mặt nồng hậu, ân cần của bà; gương mặt của bố Luke khi ông đang bí mật viết những lá thư này - rồi cảm thấy tức điên lên với Elinor. Bà ta không xứng đáng với Luke. Bà ta không xứng đáng với bất cứ gia đình nào.
Im lặng bao trùm, chỉ còn tiếng mưa rơi đều đều bên ngoài. Tôi giơ tay ra và siết chặt bàn tay Luke, cố gắng truyền nhiều tình yêu và sự ấm áp nhất mà tôi có thể.
“Luke, em chắc là bố mẹ anh hiểu. Và...” tôi nuốt tất cả những gì mà mình thực sự muốn nói về Elinor. “Và em chắc là Elinor thực sự muốn anh ở đó. Ý em là, có thể hồi đó việc này rất khó khăn với bà, hoặc... hoặc là có thể do bà phải đi xa nhiều...”
“Có điều này anh chưa bao giờ kể cho em,” Luke ngắt lời. “Hay bất cứ ai.” Anh ngẩng đầu lên. “Anh đã tới gặp mẹ anh”
“Cái gì?” tôi sửng sốt nhìn anh. “Nhưng em nghĩ anh đã nói là anh chưa bao giờ...”
“Đó là chuyến tham quan New York của trường. Anh đã phải chiến đấu ác liệt để được đi. Mẹ và bố không đồng ý cho đi, hiển nhiên rồi, nhưng cuối cùng họ đành chịu thua. Họ bảo là mẹ anh đang đi vắng, nếu không thì đương nhiên là bà rất muốn gặp anh.”
Luke với tay lấy chai whisky và rót thêm một ly nữa. “Anh không kìm được, anh phải cố gặp bà. Nhỡ họ nhầm.” Anh nhìn về phía trước, di ngón tay quanh miệng ly. “Thế là... trước khi chuyến đi kết thúc, bọn anh được tự do một ngày. Những ngưòi khác đi đến EmpireStateBuilding. Nhưng anh lén trốn đi. Anh có địa chỉ của bà, rồi anh chỉ đến và ngồi ngoài tòa nhà của bà. Đó không phải là tòa nhà bà đang ở bây giờ, là tòa nhà khác, xa trên Đại lộ Công viên. Anh ngồi trên bậc thềm, còn dân tình cứ nhìn anh khi họ đi ngang qua, nhưng anh không thèm quan tâm.”
Anh nhấp thêm một ngụm rượu và tôi nhìn anh, cứng đờ. Tôi không dám gây ra tiếng động nào. Tôi gần như là không dám thở.
“Sau đó, khoảng 12 giờ, một người phụ nữ đi ra. Bà ấy có mái tóc đen, khoác chiếc áo khoác tuyệt đẹp. Anh biết mặt bà qua ảnh. Đó là mẹ anh.” Anh im lặng trong giây lát. “Anh... anh đứng dậy. Bà nhìn lên và thấy anh. Bà nhìn anh chưa tới năm giây. Rồi bà quay đi. Như thể bà không nhìn thấy anh vậy. Bà lên taxi và đi khỏi, tất cả là vậy.” Anh nhắm nghiền mắt. “Anh thậm chí còn không có cơ hội bước tới một bước.”
“Anh... anh đã làm gì?” tôi ngập ngừng hỏi.
“Anh rời khỏi đó. Rồi anh lang thang khắp thành phố. Và anh tự thuyết phục bản thân là bà đã không nhận ra anh. Đó là những gì anh tự nhủ. Rằng bà không biết là trông anh thế nào; rằng có thể là bà không biết đó là anh.”
“Đúng rồi, có thể đúng là thế!” tôi hăng hái nói. “Làm sao mà bà có thể...”
Tôi im bặt khi anh với tay lấy một lá thư gửi bằng máy bay màu xanh đã bạc màu có ghim thứ gì đó trên đầu.
“Đây là lá thư bố anh viết cho bà báo rằng anh sắp tới,” anh nói. Anh cầm tờ giấy lên và tôi choáng váng. “Và đây là anh.”
Tôi nhìn vào mắt của một cậu thiếu niên. Một Luke mười bốn tuổi. Cậu bé mặc đồng phục học sinh, anh có kiểu tóc thật kinh khủng; thực ra thì khó mà nhận ra anh được. Nhưng đó là đôi mắt đen huyền của anh, nhìn ra thế giới với ánh mắt vừa cương quyết vừa hy vọng.
Tôi chẳng thể nói gì. Khi tôi thấy khuôn mặt ngượng nghịu, rụt rè của anh, tôi muốn khóc.
“Em đã hoàn toàn đúng, Becky. Anh đến New York để gây ấn tượng với mẹ anh. Anh muốn mẹ đứng sững trên phố, quay lại và... và nhìn chằm chằm... và tự hào...”
“Bà tự hào về anh mà!”
“Không hề!” Anh khẽ cười nửa miệng. “Anh nên bỏ cuộc thì hơn.”
“Không!” tôi nói, hơi trễ một chút. Tôi giơ tay ra cầm lấy tay của Luke, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Hoàn toàn được nuông chiều và che chở nếu so sánh. Tôi lớn lên, ý thức được rằng bố mẹ coi tôi là thứ tuyệt vời nhất thế giới; biết rằng họ yêu tôi, và luôn luôn yêu tôi dù tôi có làm bất cứ điều gì đi chăng nữa.
“Anh xin lỗi,” cuối cùng Luke nói. “Anh đã nói quá nhiều về chuyện này rồi. Hãy quên nó đi. Em muốn nói gì vậy?”
“Không có gì,” tôi nói ngay. “Chuyện dó... không có vấn đề gì. Để sau cũng được.”
Bỗng nhiên đám cưới dường như cách xa hàng triệu dặm. Tôi vo viên tờ giấy ghi chép của mình rồi ném vào thùng rác. Rồi tôi ngó quanh căn phòng bừa bộn. Những lá thư tung tóe khắp bàn, quà cưới chất đống trong góc phòng, đồ đạc khắp phòng. Thật không thể nào thoát được cuộc sống của chính mình khi sống trong một căn hộ ở Manhattan.
“Mình ra ngoài ăn đi,” tôi đứng bật dậy nói. “Rồi xem phim hay đại loại thế.”
“Anh không đói,” Luke nói.
“Điều đó không quan trọng. Chỉ là nơi này quá... chật chội.” Tôi túm tay Luke và kéo mạnh. “Nào, ra khỏi đây đi. Và quên hết mọi chuyện. Tất cả.”
Chúng tôi ra khỏi nhà và đi bộ, tay trong tay, tới rạp chiếu phim, mê mải xem một bộ phim về mafia. Xem xong, chúng tôi đi bộ qua vài lô nhà đến một nhà hàng nhỏ ấm cúng mà chúng tôi biết, gọi rượu vang đỏ và món risotto.
Chúng tôi không một lần nhắc đến Elinor. Thay vào đó, chúng tôi nói về thời thơ ấu của Luke ở Devon. Anh kể cho tôi nghe về những chuyến picnic ở bãi biển, một căn nhà trên cây mà bố đã làm cho anh trong vườn, và về cô em gái cùng cha khác mẹ Zoe cùng lũ bạn luôn bám đuôi khiến anh phát rồ lên. Rồi anh kể về Annabel. Về việc bà đã đối với anh tuyệt vời như thế nào, bà đã tử tế với mọi người ra sao; và anh chưa bao giờ cảm thấy bà yêu anh ít hơn, dù chỉ là một chút, so với Zoe, con đẻ của bà.
Rồi chúng tôi ngập ngừng nói về những điều mà chúng tôi chưa bao giờ đụng chạm đến. Như có con chẳng hạn. Luke muốn có ba đứa. Tôi muốn... ừm, sau khi đã chứng kiến cảnh Suze trở dạ, tôi không nghĩ là tôi muốn có đứa nào, nhưng tôi không nói vậy. Tôi gật đầu khi anh nói “hoặc có thể là bốn” và tự hỏi liệu tôi có thể vờ như có thai rồi bí mật nhận con nuôi không nhỉ.
Đến cuối buổi tối, tôi nghĩ Luke đã dễ chịu hơn rất nhiều. Chúng tôi đi bộ về nhà, lăn ra giường và cùng chìm vào giấc ngủ luôn. Giữa đêm khi tôi nửa tỉnh nửa mơ và tôi nghĩ đã nhìn thấy Luke đứng bên cửa sổ nhìn ra màn đêm. Nhưng tôi lại ngủ đi mất trước khi chắc chắn điều đó.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, miệng khô khốc và đầu nhức như búa bổ. Luke đã dậy và tôi nghe thấy tiếng lách cách trong bếp, vậy có thể là anh đang chuẩn bị cho tôi một bữa sáng thật ngon lành. Tôi có thể uống chút cà phê, và có lẽ cả một ít bánh mì. Và rồi...
Bụng tôi thót lên vì căng thẳng. Tôi phải ngậm đắng nuốt cay. Tôi phải nói cho anh biết về hai đám cưới.
Đêm qua là đêm qua. Đương nhiên là lúc đó tôi không thể làm được gì. Nhưng giờ là buổi sáng và tôi không thể chờ được nữa. Tôi biết đây là thời điểm kinh khủng, tôi biết hiện nay đó là điều cuối cùng anh muốn nghe. Nhưng tôi phải cho anh biết.
Tôi nghe thấy tiếng anh đi trên hành lang, và tôi hít một hơi thật sâu, cố thật bình tĩnh.
“Nghe này Luke,” tôi nói khi cánh cửa bật mở. “Em biết đây là thời điểm tồi tệ. Nhưng em rất cần nói chuyện với anh. Chúng ta gặp rắc rối rồi.”
“Chuyện gì vậy?” Robyn nói khi bước vào phòng. “Tôi hy vọng là không liên quan đến đám cưới!” Chị ta mặc một bộ đồ màu xanh lơ, đi đôi giày da trơn và bưng khay đồ ăn sáng. “Đây rồi, cưng. Chút cà phê sẽ khiến cưng tỉnh ngủ!”
Tôi đang mơ à? Robyn đang làm gì trong phòng ngủ của tôi vậy?
“Tôi đi lấy bánh nướng,” chị ta vui vẻ nói rồi biến mất khỏi căn phòng. Tôi yếu ớt ngả người ra gối, đầu óc tôi căng ra, cố hiểu xem chị ta làm gì ở đây.
Đột nhiên bộ phim về mafia tối qua lại hiện ra trong đầu tôi và tôi thấy hoảng sợ. Ôi Chúa ơi. Rõ ràng quá mà.
Chị ta đã phát hiện ra đám cưới kia - và thế là chị ta đến để giết tôi.
Robyn lại đi qua cửa, với một giỏ bánh nướng xốp, và mỉm cười khi đặt nó xuống. Tôi nhìn lại, chết khiếp vì sợ hãi.
“Robyn!” tôi khàn khàn giọng nói. “Tôi không nghĩ lại gặp cô. Chẳng phải là hơi... sớm sao?”
“Mỗi khi liên quan đến khách hàng, thì không cò gì gọi là sớm quá cả,” Robyn nháy mắt nói. “Tôi luôn sẵn sàng phục vụ, suốt ngày đêm.” Chị ta ngồi xuống chiếc ghế bành cạnh giường và rót cho tôi một tách cà phê.
“Nhưng làm thế nào mà cô vào đây được?”
“Tôi cạy khóa. Đùa thôi! Luke cho tôi vào khi anh đi ra!”
Tôi ở một mình trong căn hộ với chị ta. Chị ta đã bẫy được tôi rồi.
“Luke đã đi làm rồi sao?”
“Tôi không chắc có phải anh ấy đi làm hay không.” Robyn ngập ngừng tư lự. “Trông giống như anh ấy đi tập chạy bộ hơn.”
“Chạy bộ?”
Luke không chạy bộ.
“Nào, uống cà phê đi - rồi tôi sẽ cho cô xem thứ mà cô mong đợi. Thứ mà tất cả chúng ta mong đợi.” Chị ta nhìn đồng hồ. “Nên nhớ là tôi sẽ phải đi trong 20 phút nữa!”
Tôi đờ đẫn nhìn chị ta.
“Becky, cô ổn chứ? Cô nhớ là chúng ta có cuộc hẹn đấy chứ?”
Một ký ức mập mờ bắt đầu lọt vào tâm trí tôi, như cái bóng qua màn vải mỏng. Robyn. Bữa sáng gặp mặt. Ồ đúng rồi.
Sao tôi lại đồng ý gặp trong lúc ăn sáng nhỉ?
“Đương nhiên là tôi nhớ chứ!” cuối cùng tôi thốt lên. “Tôi chỉ hơi... cô biết đấy, choáng váng thôi.”
“Cô không cần phải giải thích đâu!” Robyn vui vẻ nói. “Cô cần nước cam tươi. Và một bữa sáng ngon lành. Tôi nói điều này với tất cả các cô dâu: cô phải chăm sóc bản thân! Chẳng ích gì khi bỏ đói bản thân rồi lăn ra ngất xỉu ngay trên bệ thờ cả. Ăn miếng bánh nướng đi.” Chị ta lục lọi trong túi. “Nhìn này! Cuối cùng chúng ta cũng đã có nó!”
Tôi ngây ra nhìn cái mảnh màu bạc lung linh mà chị ta đang cầm.
“Cái gì vậy?”
“Nó là vải cho đệm gối!” Robyn nói. “Được đặc biệt nhập về từ Trung Quốc đấy. Thứ mà vì nó, chúng tôi luôn gặp rắc rối với hải quan! Cô không thể không nhớ, đúng không nào?”
“Ồ! Không, đương nhiên là không rồi!” tôi vội vàng nói. “Vâng, trông nó... đáng yêu ghê. Rất đẹp.”
“Nào Becky, còn có chuyện này nữa,” Robyn nói. Chị ta bỏ mảnh vải sang một bên và ngước lên với vẻ mặt nghiêm nghị. “Sự thật là... tôi đang rất lo lắng.”
Tôi cảm thấy một cơn căng thẳng mới và nhấp một ngụm cà phê để che giấu. “Thật sao Chuyện gì... chuyện gì khiến cô lo lắng vậy?
“Chúng tôi không hề nhận được bất cứ hồi âm nào từ phía các vị khách mời bên Anh của cô cả. Không thấy lạ sao?”
Trong một thoáng, tôi không cất nổi lời.
“Ờ... phải,” cuối cùng tôi nói. “Lạ thật.”
“Ngoài bố mẹ Luke đã nhận lời trước đó. Đương nhiên họ nằm trong danh sách khách mời của Elinor nên họ đã nhận được giấy mời sớm hơn một chút, nhưng dù vậy thì...” Chị ta lấy tách cà phê của tôi và uống một ngụm. “Ừm. Ngon quá. Dù là tôi tự nói vậy thôi! Nào, giờ thì tôi không muốn buộc tội bất cứ ai là cư xử tệ cả. Nhưng chúng ta cần phải bắt đầu thu về một vài con số rồi. Vậy nếu tôi gọi vài cuộc điện thoại lịch thiệp sang Anh thì sẽ không sao chứ? Tôi đã có tất cả các số điện thoại trong cơ sở dữ liệu rồi...”
“Không!” tôi nói, đột nhiên bật dậy. “Đừng gọi ai cả! Ý tôi là... cô sẽ nhận được hồi âm, tôi hứa đấy.”
“Chỉ là rất lạ thôi!” Robyn trầm ngâm. “Chẳng nhận được tin tức gì... Tất cả bọn họ đều đã nhận được giấy mời, đúng không?”
“Đương nhiên là vậy! Tôi dám chắc đó chỉ là do sơ suất thôi.” Tôi bắt đầu vần vò khăn trải giường. “Cô sẽ nhận được hồi âm trong vòng một tuần thôi. Tôi có thể... bảo đảm như vậy.”
“Chà, tất nhiên tôi hy vọng vậy! Vì sắp hết thời gian! Chúng ta chỉ còn bốn tuần nữa thôi!”
“Tôi biết!” tôi thốt lên the thé và uống thêm một ngụm cà phê, thực lòng ao ước nó là vodka.
Bốn tuần.
Ôi Chúa ơi.
“Tôi rót thêm cho cưng nhé?” Robyn đứng dậy - rồi lại cúi xuống. “Cái gì đây?” chị ta nói với vẻ thích thú và nhặt một tờ giấy nằm trên sàn nhà. “Cái này có phải là thực đơn không?”
Tôi ngước lên nhìn - và tim tôi như ngừng đập. Chị ta cầm một trong số những tờ fax của mẹ.
Thực đơn của đám cưới kia.
Mọi thứ đều đang ở đó, ngay dưới gầm giường. Nếu chị ta bắt đầu nhìn...
“Không có gì!” tôi nói, giật lấy tờ giấy từ tay chị ta. “Chỉ là... ừm... thực đơn cho một... một bữa tiệc...”
“Cô sẽ tổ chức một bữa tiệc?”
“Chúng tôi... đang dự tính như vậy.”
“Phải rồi, nếu cô cần giúp đỡ lên kế hoạch tổ chức nó thì cứ nói nhé!” Robyn hạ giọng đầy tin tưởng. “Và lời khuyên nho nhỏ nhé?” Chị ta chỉ vào thực đơn của mẹ. “Tôi nghĩ cô sẽ thấy những món bánh và nem cuộn là hơi lỗi thời rồi.”
“Đúng vậy. Ơ... Cảm ơn.”
Tôi phải tống cổ người phụ nữ này ra khỏi đây. Ngay lập tức. Trước khi chị ta tìm ra cái gì khác nữa.
Bất thình lình, tôi quăng đám chăn ra đằng sau và nhảy ra khỏi giường.
“Robyn, thực ra thì tôi vẫn cảm thấy không được khỏe lắm. Chúng ta có thể... có thể bàn những việc còn lại vào một lúc khác không?”
“Tôi hiểu. Chị ta vỗ vai tôi. “Tôi sẽ để cô yên tĩnh nghỉ ngơi.”
“Nhân tiện,” tôi bỗng nói khi chúng tôi ra đến cửa. “Tôi chỉ thắc mắc... Cô biết điều khoản về tiền bồi thường trong bản hợp đồng của cô chứ?”
“Có!” Robyn tươi cười với tôi.
“Hỏi vì tò mò thôi.” Tôi cười nhỏ. “Cô đã bao giờ thực sự lấy khoản đó chưa?”
“Ồ, chỉ có vài lần thôi!” Robyn nói. Chị ta ngừng lại để hồi tưỏng. “Một cô nàng ngu xuẩn đã cố chạy trốn đến Phần Lan... nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn tìm thấy cô ta... Gặp lại cô sau nhé, Becky!”
“Hẹn gặp lại!” Tôi nói với cái giọng hớn hở phù hợp với giọng chị ta, đóng cửa lại, tim đập thình thịch.
Chị ta sẽ tóm được mình. Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.
***
Ngay khi tới nơi làm việc, tôi gọi điện đến văn phòng của Luke và gặp trợ lý của anh, Julia.
“Chào,” tôi nói, “tôi nói chuyện với Luke được không?”
“Luke đã gọi điện báo ốm,” Julia nói với giọng ngạc nhiên. “Cô không biết sao?”
Tôi kinh ngạc sững nhìn cái ống nghe. Luke bị ốm? Ồ! Có lẽ dư âm cơn say rượu của anh thậm chí còn kinh hoàng hơn của tôi.
Chết tiệt, suýt nữa là tôi làm lộ tẩy cả.
“Ồ phải!” tôi vội nói. “Đúng vậy! Giờ cô nhắc đến việc đó... Đương nhiên là tôi biết! Anh ấy bị sốt quá chừng. Và... bụng... bụng anh ấy. Tôi chợt quên mất, vậy thôi.”
“Vâng, cho chúng tôi gửi lời hỏi thăm anh ấy nhé.”
“Vâng!”
Khi đặt điện thoại xuống, tôi nhận ra là mình đã phản ứng hơi quá khích. Ý tôi là, đâu có ai định sa thải Luke đâu? Dù sao thì đó cũng là công ty của anh ấy mà.
Thực ra tôi hài lòng vì anh đã nghỉ một hôm.
Nhưng dù vậy. Luke đang bị ốm. Anh chẳng bao giờ ốm.
Và anh cũng không bao giờ tập chạy bộ. Chuyện gì thế nhỉ?
***
Lẽ ra tôi sẽ đi uống cùng Erin sau giờ làm, nhưng thay vào đó, tôi viện cớ để không đi và vội về nhà. Khi bước vào, căn hộ lờ mờ tối, và trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ Luke chưa về. Nhưng rồi tôi nhìn thấy anh đang ngồi buồn bã ở bàn, anh mặc quần thể thao và áo gió.
Rốt cuộc thì chúng tôi cũng có một buổi tối cho riêng mình. Được rồi, chính là lúc này đây. Cuối cùng tôi cũng sẽ nói cho anh biết mọi chuyện.
“Chào anh,” tôi nói và thả mình xuống chiếc ghế bên cạnh anh. “Anh thấy khá hơn rồi chứ? Em gọi tới chỗ làm của anh và họ nói anh bị ốm.”
Im lặng.
“Anh chẳng có tâm trí nào để đi làm,” cuối cùng Luke cũng nói.
“Anh đã làm gì suốt cả ngày nay? Có thực là anh đi chạy bộ không?”
“Anh đi dạo khá xa,” Luke nói. “Và anh đã suy nghĩ rất nhiều.”
“Về... mẹ anh?” Tôi ngập ngừng nói.
“Phải, về mẹ anh. Về rất nhiều thứ khác nữa.” Anh quay lại và tôi ngạc nhiên vì anh chưa cạo râu. Ừm. Thực ra tôi khá thích anh không cạo râu.
“Nhưng anh ổn chứ?”
“Đó là vấn đề,” anh nói sau một thoáng ngập ngừng. “Anh có ổn không?”
“Hẳn là tối qua anh đã uống hơi nhiều quá ấy mà.” Tôi vừa cởi áo khoác, vừa sắp xếp những lời sẽ nói. “Luke, nghe này. Có chuyện này rất quan trọng mà em cần phải nói với anh. Em đã trì hoãn vấn đề này mấy tuần nay rồi...”
“Becky, em đã bao giờ nghĩ đến những đường phố đan chéo nhau ở Manhattan chưa?” Luke ngắt lời tôi. “Thực sự nghĩ về nó?”
“Ờ... chưa,” tôi nói, do dự một lúc. “Em không thể nói là đã từng nghĩ về nó.”
“Nó giống như... một ẩn dụ cho cuộc đời. Em nghĩ mình tự do đi bất cứ đâu cũng được. Nhưng thực ra...” Anh dùng ngón tay vẽ một đường thẳng trên mặt bàn. “Em hoàn toàn bị điều khiển: lên hoặc xuống. Trái hoặc phải... Không có lựa chọn nào khác.”
“Đúng vậy,” tôi nói sau một thoáng ngập ngừng. “Tất nhiên rồi. Chuyện là thế này, Luke...”
“Cuộc đời nên là một không gian mở, Becky ạ. Em nên được bước đi trên bất cứ ngả đường nào em chọn. ”
“Em nghĩ...”
“Hôm nay anh đã đi bộ từ đầu này đến đầu kia hòn đảo này.”
“Thật sao?” Tôi nhìn anh chăm chú. “Ơ... tại sao?”
“Anh ngước lên nhìn ở một điểm, và anh bị vây quanh bởi những cao ốc văn phòng. Ánh mặt trời phản chiếu từ những cánh cửa sổ kính dày. Phản chiếu ngược xuôi.”
“Nghe có vẻ đẹp nhỉ,” tôi nói không thỏa đáng lắm.
“Em có hiểu những gì anh đang nói không đấy?” anh nhìn tôi chằm chằm, và đột nhiên tôi nhận thấy quầng thâm dưới mắt anh. Chúa ơi, trông anh mệt mỏi quá. “Ánh sáng vào Manhattan... và bị giam hãm. Bị giam hãm trong chính thế giới của nó, phản chiếu ngược xuôi mà không có lối thoát.”
“Chà... đúng thế, em nghĩ vậy. Trừ việc... đôi khi trời mưa, đúng không?”
“Và con người cũng thế.”
“Vậy sao?”
“Đây là thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống. Tự suy tư. Tự ám ảnh. Cơ bản là vô nghĩa. Nhìn anh chàng trong bệnh viện xem. 33 tuổi - và anh ta bị đau tim. Nếu anh ta chết thì sao. Liệu anh ta đã có một cuộc đời mãn nguyện?”
“Ơ...
“Anh đã có một cuộc sống mãn nguyện chưa? Hãy nói thật cho anh biết, Becky. Nhìn anh và nói đi.”
“Chà... ừm... đương nhiên là có rồi!”
“Nhảm nhí” Anh lấy một tờ báo của Công ty Truyền thông Brandon mới phát hành và nhìn chằm chằm vào đó. “Cuộc đời anh chính là như thế này đây. Những mẩu tin tức vô nghĩa.” Trước sự choáng váng của tôi, anh bắt đầu xé tan nó ra. “Đám giấy lộn vô nghĩa chết tiệt.”
Đột nhiên tôi nhận thấy anh đang xé cả tờ kê khai tài khoản ngân hàng chung của chúng tôi nữa.
“Luke! Đó là tờ kê khai ngân hàng của chúng ta!”
“Thì sao nào? Nó quan trọng lắm sao? Chỉ là một vài con số vô nghĩa. Ai thèm quan tâm cơ chứ?”
“Nhưng... nhưng...”
Ở đây có gì đó không ổn.
“Có chút gì quan trọng không cơ chứ?” Anh tung vụn giấy lên sàn nhà, và tôi buộc lòng phải cúi xuống nhặt lên. “Becky, em thật có lý.”
“Em có lý?” Tôi cảnh giác nói.
Có cái gì đó rất không ổn ở đây.
“Tất cả chúng ta đều bị vật chất chi phối quá mức. Ám ảnh về sự thành công, về tiền, về việc cố gây ấn tượng với những người mà chẳng bao giờ bị ấn tượng, dù em có làm gì...” Đột nhiên anh ngừng lại, thở thật mạnh. “Chính tính nhân văn mới là quan trọng. Chúng ta nên hiểu biết về những người vô gia cư. Chúng ta nên hiểu biết những người nông dân Bolivia.”
“À... vâng,” tôi nói sau một thoáng ngập ngừng. “Tuy nhiên...”
“Cả ngày nay trong đầu anh luôn quay cuồng suy nghĩ về điều em đã nói trước đây. Và giờ thì anh không thể quên được.”
“Đó là gì?” Tôi lo lắng nói.
“Em đã nói...” anh ngập ngừng, dường như đang cố tìm từ ngữ thích hợp. “Em đã nói rằng chúng ta chỉ ở trên hành tinh này trong một khoảng thời gian quá ngắn. Và đến cuối cùng, điều gì là quan trọng hơn? Biết rằng một vài con số vô nghĩa cân bằng - hay biết rằng em là con người mà em mong muốn trở thành?”
Tôi há hốc mồm nhìn anh. “Nhưng... nhưng đó chỉ là những điều em bịa ra thôi! Em đã không nghiêm túc...”
“Anh không phải là con người mà anh muốn trở thành, Becky ạ. Anh không nghĩ mình đã có lúc nào là con người anh mong muốn. Anh đã bị che mắt. Anh đã bị ám ảnh bởi tất cả những thứ sai lầm...”
“Thôi nào!” tôi vừa nói vừa siết chặt tay anh đầy khích lệ. “Anh là Luke Brandon! Anh thành công, đẹp trai và giàu có...”
“Anh không phải là con người mà lẽ ra anh nên làm. Vấn đề là, bây giờ anh không biết con người đó là như thế nào. Anh không biết mình muốn trở thành ai... muốn làm gì với cuộc đời mình... nên đi con đường nào...” anh đổ sụp xuống phía trước và lấy tay ôm đầu. “Becky, anh cần có câu trả lời.”
Tôi không tin nổi điều này. Ở tuổi 34, Luke đang bị khủng hoảng trung niên.
**
NGN HÀNG SECOND UNION
53 PHỐ WALL
NEWYORK, NY 10005
Ngày 7 tháng Mười một, năm 2001
Cô Rebecca Bloomvvood
Căn hộ B 251 Phố 11 Tây
New York, NY 10014
Cô Bloomvvood thân mến,
Cảm ơn cô vì lá thư vào ngày 21 tháng Năm. Tôi rất vui là cô đã bắt đầu coi tôi là một người bạn tốt, và để trả lời cho câu hỏi của cô, sinh nhật của tôi là 31 tháng Mười.
Tôi cũng nghĩ rằng đám cưới là sự vụ rất tốn kém. Tuy nhiên, rất tiếc là tôi không thể nâng hạn mức thấu chi của cô từ 5.000 đô la lên 105.000 đô la vào thời điểm này được.
Thay vào đó, tôi có thể sẵn sàng giúp cô tăng hạn mức lên 6.000 đô la, và tôi hy vọng điều này sẽ giúp được cho cô phần nào.
Trân trọng,
Walt Pitman
Giám đốc Dịch vụ Khách hàng
***
Số 49 đường Drakeford
Potters Bar
Hertfordshire
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông Malcolm Bloomwood cảm ơn bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự dám cưới của Becky và Luke tại Plaza ngày 22 tháng Sáu. Nhưng không may là ông ấy phải từ chối vì ông bị gãy chân.
***
The Oaks
Số 41 Đường Elton
Oxshott, Surrey
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông bà Martin Webster cảm ơn bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và Luke tại Plaze ngày 22 tháng Sáu. Nhưng thật không may là họ phải từ chối, vì cả hai đều bị viêm tuyến bạch cầu.
***
Số 9 đường Foxtrot
Reigate
Surrey
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông bà Tom Webster cảm ơn bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và LuketạiPlaza ngày 22 tháng Sáu. Nhưng thật không may là họ phải từ chối vì con chó cưng của họ vừa qua đời.
Tôi ghé qua một quán cà phê trên đường về, uống cà phê và suy nghĩ thật thận trọng xem sẽ nói cho anh biết như thế nào. Bởi vì, mọi người biết đấy, tất cả đều nằm ở phần trình bày. Khi tổng thổng sắp tăng thuế, ông ta không nói, “Tôi sẽ tăng thuế.” Ông ta nói “Mọi công dân Mỹ đều biết giá trị của giáo dục.” Thế là tôi đã viết ra cả một bài diễn văn cho bản thân, hơi giống bài nói ở Quốc hội, và tôi học thuộc lòng từng câu từng chữ, với những khoảng ngắt giọng dành chỗ cho những thán từ của Luke. (Hoặc vỗ tay. Dù điều đó chắc là không thể xảy ra.) Chỉ cần tôi bám sát bài viết, và không ai hỏi về chính sách đối với Uganda thì chúng ra sẽ ổn cả thôi.
Chân tôi hơi run khi trèo lên cầu thang về căn hộ chúng tôi, dù Luke vẫn chưa đi làm về; tôi vẫn có thời gian để chuẩn bị. Nhưng khi tôi mở cửa, choáng váng, anh đã ở đó, đang ngồi ở bàn với một tập giấy tờ.
Được rồi Becky, lên nào. Thưa các quý ông quý bà thành viên Quốc Hội. Bốn điểm và những thứ mà tôi quên mất tiêu rồi. Tôi để cánh cửa tự đóng sau lưng mình, lấy tờ giấy ra và hít một hơi thật sâu.
“Luke,” tôi bắt đầu với giọng thật trưởng thành và trang nghiêm. “Em có vài điều muốn nói với anh về đám cưới. Đó là một vấn đề khá nghiêm trọng, mà không có giải pháp nào dễ dàng cả. Nếu có một giải pháp, thì đó là giải pháp chỉ có thể thực hiện được với sự giúp đỡ của anh. Đó là lý do hây giờ em sẽ nói cho anh biết điều này - và mong anh lắng nghe bằng một suy nghĩ rộng lượng. ”
Cho tới giờ mọi chuyện đều ổn. Tôi thực sự khá tự hào về điều đó. Phần “lắng nghe với suy nghĩ rộng lượng” thì đặc biệt sáng tạo, vì nó có nghĩa anh sẽ không thể quát mắng tôi.
“Để giải thích rõ tình thế khó khăn hiện nay của mình,” tôi tiếp tục, “em sẽ phải đưa anh trở về quá khứ. về lúc khởi điểm mọi chuyện. Nói vậy em không có ý là thuở hồng hoang hình thành trái đất đâu nhé. Thậm chí không phải là vụ nổ Big Bang. Mà là bữa tiệc trà ở Claridges.”
Tôi ngập ngừng - nhưng Luke vẫn yên lặng lắng nghe. Có lẽ chuyện này sẽ ổn thôi.
“Chính nơi đó, ở Claridges, rắc rối của em bắt đầu. Em đã được đề nghị một nhiệm vụ bất khả thi. Em là vị thần Hi Lạp buộc phải lựa chọn giữa 3 quả táo. Ngoại trừ việc chỉ có hai - và chúng không phải là táo.” Tôi dừng lại đầy ẩn ý. “Chúng là hai đám cưới”
Cuối cùng thì Luke cũng quay lại trên chiếc ghế. Mắt anh đỏ ngầu, và trên khuôn mặt anh có vẻ lạ lùng. Khi anh nhìn tôi chằm chằm, tôi thấy sợ.
“Becky,” anh nói như thể với một nỗ lực lớn.
“Vâng?” tôi hít không khí vào.
“Em có nghĩ rằng mẹ anh yêu anh không?”
“Gì cơ?” tôi bối rối nói.
“Nói thật cho anh biết. Em có nghĩ là mẹ yêu anh không?”
Khoan đã. Anh ấy có nghe được từ nào mà tôi nói nãy giờ không đấy? “Đương nhiên là có!” tôi nói. “Và nói về các bà mẹ, thì xét theo một chiều hướng nào đó, nguồn gốc vấn đề của em nằm ở...”
“Anh là một thằng ngốc.” Luke cầm kính lên và tợp một ngụm cái thứ trông có vẻ giống whisky. “Bà chỉ lợi dụng anh thôi, đúng không?”
Tôi bối rối nhìn anh - rồi để ý thấy chai rượu vơi một nửa trên bàn. Anh đã ngồi đây bao lâu rồi thế này? Tôi nhìn khuôn mặt anh lần nữa, căng ra và tổn thương, như đang gặm nhấm một số điều mà tôi có thể đã nói về Elinor.
“Đương nhiên là bà yêu anh!” tôi bỏ bài diễn thuyết của mình xuống và đến bên anh. “Em chắc là có. Ý em là, anh có thể thấy được mà, từ cái cách bà... ừm...” tôi ấp úng yếu ớt.
Tôi nên nói gì đây? Cái cách mà bà ta dùng nhân viên của anh mà không hề báo đáp hay cảm ơn. Cái cách bà ta đâm sau lưng anh rồi biến đi Thụy Sĩ?
“Chuyện gì... sao anh lại...” Tôi ngập ngừng hỏi. “Đã có chuyện gì xảy ra sao?”
“Anh thật ngu ngốc.” Anh lắc đầu. “Từ trước đó anh đã nảy ra vài điều.” Anh hít thở thật sâu. “Anh đã tới căn hộ của bà để lấy vài giấy tờ cho Quỹ. Và anh chẳng biết vì sao - có thể là sau khi xem những bức ảnh Suze và Ernie lúc sáng.” Anh ngước lên. “Nhưng anh thấy mình lục khắp phòng làm việc của bà để tìm kiếm những bức ảnh cũ. Ảnh anh hồi bé. Ảnh hai mẹ con. Anh thực sự không biết mình đang tìm kiếm cái gì nữa. Bất cứ thứ gì, anh đoán vậy.”
“Anh có tìm thấy gì không?”
Luke ra hiệu về phía những giấy tờ bày bừa trên bàn và tôi lúng túng liếc nhìn ngay lập tức. “Chúng là gì vậy?”
“Là thư. Do bố anh gửi. Những lá thư ông ấy viết cho mẹ sau khi họ chia tay, 15, 20 năm trước, cầu xin bà hãy gặp anh.” Giọng anh vô cảm còn tôi thì thận trọng nhìn anh.
“Nghĩa là sao?”
“Ý anh muốn nói là ông đã van xin bà tới thăm anh,” giọng Luke đều đều. “Ông đề nghị sẽ thanh toán hóa đơn khách sạn. Ông đề nghị là sẽ đi cùng anh. Ông yêu cầu hết lần này tới lần khác... và anh đã không biết điều đó.” Anh với tay lấy vài tờ rồi đưa cho tôi. “Đấy, em tự đọc đi.”
Cố giấu sự choáng váng, tôi bắt đầu đọc lướt chung, nhập vào đầu vài cụm từ chỗ này chỗ kia.
Luke muốn gặp mẹ nó đến tuyệt vọng... không thể hiểu nổi thái độ của cô...
“Những lá thư này giải thích rất nhiều điều. Hóa ra người chồng mới của bà không hề ngăn bà đưa anh đi cùng họ. Ông ấy có vẻ là một người rất tử tế. Ồng ấy đồng tình với bố anh rằng anh nên đến chơi. Nhưng bà ấy không thích.” Anh nhún vai. “Mà anh nghĩ sao bà ấy lại phải muốn nhỉ?”
...một cậu bé thông minh đáng yêu... đang bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời...
“Luke, chuyện này... thật kinh khủng,” tôi nói không thỏa đáng lắm.
“Điều tồi tệ nhất là, anh đã luôn trút hết lên bố mẹ anh. Khi anh còn nhỏ. Anh đã luôn đổ lỗi cho họ.”
Tôi đột nhiên thấy cảnh Annabel và khuôn mặt nồng hậu, ân cần của bà; gương mặt của bố Luke khi ông đang bí mật viết những lá thư này - rồi cảm thấy tức điên lên với Elinor. Bà ta không xứng đáng với Luke. Bà ta không xứng đáng với bất cứ gia đình nào.
Im lặng bao trùm, chỉ còn tiếng mưa rơi đều đều bên ngoài. Tôi giơ tay ra và siết chặt bàn tay Luke, cố gắng truyền nhiều tình yêu và sự ấm áp nhất mà tôi có thể.
“Luke, em chắc là bố mẹ anh hiểu. Và...” tôi nuốt tất cả những gì mà mình thực sự muốn nói về Elinor. “Và em chắc là Elinor thực sự muốn anh ở đó. Ý em là, có thể hồi đó việc này rất khó khăn với bà, hoặc... hoặc là có thể do bà phải đi xa nhiều...”
“Có điều này anh chưa bao giờ kể cho em,” Luke ngắt lời. “Hay bất cứ ai.” Anh ngẩng đầu lên. “Anh đã tới gặp mẹ anh”
“Cái gì?” tôi sửng sốt nhìn anh. “Nhưng em nghĩ anh đã nói là anh chưa bao giờ...”
“Đó là chuyến tham quan New York của trường. Anh đã phải chiến đấu ác liệt để được đi. Mẹ và bố không đồng ý cho đi, hiển nhiên rồi, nhưng cuối cùng họ đành chịu thua. Họ bảo là mẹ anh đang đi vắng, nếu không thì đương nhiên là bà rất muốn gặp anh.”
Luke với tay lấy chai whisky và rót thêm một ly nữa. “Anh không kìm được, anh phải cố gặp bà. Nhỡ họ nhầm.” Anh nhìn về phía trước, di ngón tay quanh miệng ly. “Thế là... trước khi chuyến đi kết thúc, bọn anh được tự do một ngày. Những ngưòi khác đi đến EmpireStateBuilding. Nhưng anh lén trốn đi. Anh có địa chỉ của bà, rồi anh chỉ đến và ngồi ngoài tòa nhà của bà. Đó không phải là tòa nhà bà đang ở bây giờ, là tòa nhà khác, xa trên Đại lộ Công viên. Anh ngồi trên bậc thềm, còn dân tình cứ nhìn anh khi họ đi ngang qua, nhưng anh không thèm quan tâm.”
Anh nhấp thêm một ngụm rượu và tôi nhìn anh, cứng đờ. Tôi không dám gây ra tiếng động nào. Tôi gần như là không dám thở.
“Sau đó, khoảng 12 giờ, một người phụ nữ đi ra. Bà ấy có mái tóc đen, khoác chiếc áo khoác tuyệt đẹp. Anh biết mặt bà qua ảnh. Đó là mẹ anh.” Anh im lặng trong giây lát. “Anh... anh đứng dậy. Bà nhìn lên và thấy anh. Bà nhìn anh chưa tới năm giây. Rồi bà quay đi. Như thể bà không nhìn thấy anh vậy. Bà lên taxi và đi khỏi, tất cả là vậy.” Anh nhắm nghiền mắt. “Anh thậm chí còn không có cơ hội bước tới một bước.”
“Anh... anh đã làm gì?” tôi ngập ngừng hỏi.
“Anh rời khỏi đó. Rồi anh lang thang khắp thành phố. Và anh tự thuyết phục bản thân là bà đã không nhận ra anh. Đó là những gì anh tự nhủ. Rằng bà không biết là trông anh thế nào; rằng có thể là bà không biết đó là anh.”
“Đúng rồi, có thể đúng là thế!” tôi hăng hái nói. “Làm sao mà bà có thể...”
Tôi im bặt khi anh với tay lấy một lá thư gửi bằng máy bay màu xanh đã bạc màu có ghim thứ gì đó trên đầu.
“Đây là lá thư bố anh viết cho bà báo rằng anh sắp tới,” anh nói. Anh cầm tờ giấy lên và tôi choáng váng. “Và đây là anh.”
Tôi nhìn vào mắt của một cậu thiếu niên. Một Luke mười bốn tuổi. Cậu bé mặc đồng phục học sinh, anh có kiểu tóc thật kinh khủng; thực ra thì khó mà nhận ra anh được. Nhưng đó là đôi mắt đen huyền của anh, nhìn ra thế giới với ánh mắt vừa cương quyết vừa hy vọng.
Tôi chẳng thể nói gì. Khi tôi thấy khuôn mặt ngượng nghịu, rụt rè của anh, tôi muốn khóc.
“Em đã hoàn toàn đúng, Becky. Anh đến New York để gây ấn tượng với mẹ anh. Anh muốn mẹ đứng sững trên phố, quay lại và... và nhìn chằm chằm... và tự hào...”
“Bà tự hào về anh mà!”
“Không hề!” Anh khẽ cười nửa miệng. “Anh nên bỏ cuộc thì hơn.”
“Không!” tôi nói, hơi trễ một chút. Tôi giơ tay ra cầm lấy tay của Luke, cảm thấy hoàn toàn bất lực. Hoàn toàn được nuông chiều và che chở nếu so sánh. Tôi lớn lên, ý thức được rằng bố mẹ coi tôi là thứ tuyệt vời nhất thế giới; biết rằng họ yêu tôi, và luôn luôn yêu tôi dù tôi có làm bất cứ điều gì đi chăng nữa.
“Anh xin lỗi,” cuối cùng Luke nói. “Anh đã nói quá nhiều về chuyện này rồi. Hãy quên nó đi. Em muốn nói gì vậy?”
“Không có gì,” tôi nói ngay. “Chuyện dó... không có vấn đề gì. Để sau cũng được.”
Bỗng nhiên đám cưới dường như cách xa hàng triệu dặm. Tôi vo viên tờ giấy ghi chép của mình rồi ném vào thùng rác. Rồi tôi ngó quanh căn phòng bừa bộn. Những lá thư tung tóe khắp bàn, quà cưới chất đống trong góc phòng, đồ đạc khắp phòng. Thật không thể nào thoát được cuộc sống của chính mình khi sống trong một căn hộ ở Manhattan.
“Mình ra ngoài ăn đi,” tôi đứng bật dậy nói. “Rồi xem phim hay đại loại thế.”
“Anh không đói,” Luke nói.
“Điều đó không quan trọng. Chỉ là nơi này quá... chật chội.” Tôi túm tay Luke và kéo mạnh. “Nào, ra khỏi đây đi. Và quên hết mọi chuyện. Tất cả.”
Chúng tôi ra khỏi nhà và đi bộ, tay trong tay, tới rạp chiếu phim, mê mải xem một bộ phim về mafia. Xem xong, chúng tôi đi bộ qua vài lô nhà đến một nhà hàng nhỏ ấm cúng mà chúng tôi biết, gọi rượu vang đỏ và món risotto.
Chúng tôi không một lần nhắc đến Elinor. Thay vào đó, chúng tôi nói về thời thơ ấu của Luke ở Devon. Anh kể cho tôi nghe về những chuyến picnic ở bãi biển, một căn nhà trên cây mà bố đã làm cho anh trong vườn, và về cô em gái cùng cha khác mẹ Zoe cùng lũ bạn luôn bám đuôi khiến anh phát rồ lên. Rồi anh kể về Annabel. Về việc bà đã đối với anh tuyệt vời như thế nào, bà đã tử tế với mọi người ra sao; và anh chưa bao giờ cảm thấy bà yêu anh ít hơn, dù chỉ là một chút, so với Zoe, con đẻ của bà.
Rồi chúng tôi ngập ngừng nói về những điều mà chúng tôi chưa bao giờ đụng chạm đến. Như có con chẳng hạn. Luke muốn có ba đứa. Tôi muốn... ừm, sau khi đã chứng kiến cảnh Suze trở dạ, tôi không nghĩ là tôi muốn có đứa nào, nhưng tôi không nói vậy. Tôi gật đầu khi anh nói “hoặc có thể là bốn” và tự hỏi liệu tôi có thể vờ như có thai rồi bí mật nhận con nuôi không nhỉ.
Đến cuối buổi tối, tôi nghĩ Luke đã dễ chịu hơn rất nhiều. Chúng tôi đi bộ về nhà, lăn ra giường và cùng chìm vào giấc ngủ luôn. Giữa đêm khi tôi nửa tỉnh nửa mơ và tôi nghĩ đã nhìn thấy Luke đứng bên cửa sổ nhìn ra màn đêm. Nhưng tôi lại ngủ đi mất trước khi chắc chắn điều đó.
Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy, miệng khô khốc và đầu nhức như búa bổ. Luke đã dậy và tôi nghe thấy tiếng lách cách trong bếp, vậy có thể là anh đang chuẩn bị cho tôi một bữa sáng thật ngon lành. Tôi có thể uống chút cà phê, và có lẽ cả một ít bánh mì. Và rồi...
Bụng tôi thót lên vì căng thẳng. Tôi phải ngậm đắng nuốt cay. Tôi phải nói cho anh biết về hai đám cưới.
Đêm qua là đêm qua. Đương nhiên là lúc đó tôi không thể làm được gì. Nhưng giờ là buổi sáng và tôi không thể chờ được nữa. Tôi biết đây là thời điểm kinh khủng, tôi biết hiện nay đó là điều cuối cùng anh muốn nghe. Nhưng tôi phải cho anh biết.
Tôi nghe thấy tiếng anh đi trên hành lang, và tôi hít một hơi thật sâu, cố thật bình tĩnh.
“Nghe này Luke,” tôi nói khi cánh cửa bật mở. “Em biết đây là thời điểm tồi tệ. Nhưng em rất cần nói chuyện với anh. Chúng ta gặp rắc rối rồi.”
“Chuyện gì vậy?” Robyn nói khi bước vào phòng. “Tôi hy vọng là không liên quan đến đám cưới!” Chị ta mặc một bộ đồ màu xanh lơ, đi đôi giày da trơn và bưng khay đồ ăn sáng. “Đây rồi, cưng. Chút cà phê sẽ khiến cưng tỉnh ngủ!”
Tôi đang mơ à? Robyn đang làm gì trong phòng ngủ của tôi vậy?
“Tôi đi lấy bánh nướng,” chị ta vui vẻ nói rồi biến mất khỏi căn phòng. Tôi yếu ớt ngả người ra gối, đầu óc tôi căng ra, cố hiểu xem chị ta làm gì ở đây.
Đột nhiên bộ phim về mafia tối qua lại hiện ra trong đầu tôi và tôi thấy hoảng sợ. Ôi Chúa ơi. Rõ ràng quá mà.
Chị ta đã phát hiện ra đám cưới kia - và thế là chị ta đến để giết tôi.
Robyn lại đi qua cửa, với một giỏ bánh nướng xốp, và mỉm cười khi đặt nó xuống. Tôi nhìn lại, chết khiếp vì sợ hãi.
“Robyn!” tôi khàn khàn giọng nói. “Tôi không nghĩ lại gặp cô. Chẳng phải là hơi... sớm sao?”
“Mỗi khi liên quan đến khách hàng, thì không cò gì gọi là sớm quá cả,” Robyn nháy mắt nói. “Tôi luôn sẵn sàng phục vụ, suốt ngày đêm.” Chị ta ngồi xuống chiếc ghế bành cạnh giường và rót cho tôi một tách cà phê.
“Nhưng làm thế nào mà cô vào đây được?”
“Tôi cạy khóa. Đùa thôi! Luke cho tôi vào khi anh đi ra!”
Tôi ở một mình trong căn hộ với chị ta. Chị ta đã bẫy được tôi rồi.
“Luke đã đi làm rồi sao?”
“Tôi không chắc có phải anh ấy đi làm hay không.” Robyn ngập ngừng tư lự. “Trông giống như anh ấy đi tập chạy bộ hơn.”
“Chạy bộ?”
Luke không chạy bộ.
“Nào, uống cà phê đi - rồi tôi sẽ cho cô xem thứ mà cô mong đợi. Thứ mà tất cả chúng ta mong đợi.” Chị ta nhìn đồng hồ. “Nên nhớ là tôi sẽ phải đi trong 20 phút nữa!”
Tôi đờ đẫn nhìn chị ta.
“Becky, cô ổn chứ? Cô nhớ là chúng ta có cuộc hẹn đấy chứ?”
Một ký ức mập mờ bắt đầu lọt vào tâm trí tôi, như cái bóng qua màn vải mỏng. Robyn. Bữa sáng gặp mặt. Ồ đúng rồi.
Sao tôi lại đồng ý gặp trong lúc ăn sáng nhỉ?
“Đương nhiên là tôi nhớ chứ!” cuối cùng tôi thốt lên. “Tôi chỉ hơi... cô biết đấy, choáng váng thôi.”
“Cô không cần phải giải thích đâu!” Robyn vui vẻ nói. “Cô cần nước cam tươi. Và một bữa sáng ngon lành. Tôi nói điều này với tất cả các cô dâu: cô phải chăm sóc bản thân! Chẳng ích gì khi bỏ đói bản thân rồi lăn ra ngất xỉu ngay trên bệ thờ cả. Ăn miếng bánh nướng đi.” Chị ta lục lọi trong túi. “Nhìn này! Cuối cùng chúng ta cũng đã có nó!”
Tôi ngây ra nhìn cái mảnh màu bạc lung linh mà chị ta đang cầm.
“Cái gì vậy?”
“Nó là vải cho đệm gối!” Robyn nói. “Được đặc biệt nhập về từ Trung Quốc đấy. Thứ mà vì nó, chúng tôi luôn gặp rắc rối với hải quan! Cô không thể không nhớ, đúng không nào?”
“Ồ! Không, đương nhiên là không rồi!” tôi vội vàng nói. “Vâng, trông nó... đáng yêu ghê. Rất đẹp.”
“Nào Becky, còn có chuyện này nữa,” Robyn nói. Chị ta bỏ mảnh vải sang một bên và ngước lên với vẻ mặt nghiêm nghị. “Sự thật là... tôi đang rất lo lắng.”
Tôi cảm thấy một cơn căng thẳng mới và nhấp một ngụm cà phê để che giấu. “Thật sao Chuyện gì... chuyện gì khiến cô lo lắng vậy?
“Chúng tôi không hề nhận được bất cứ hồi âm nào từ phía các vị khách mời bên Anh của cô cả. Không thấy lạ sao?”
Trong một thoáng, tôi không cất nổi lời.
“Ờ... phải,” cuối cùng tôi nói. “Lạ thật.”
“Ngoài bố mẹ Luke đã nhận lời trước đó. Đương nhiên họ nằm trong danh sách khách mời của Elinor nên họ đã nhận được giấy mời sớm hơn một chút, nhưng dù vậy thì...” Chị ta lấy tách cà phê của tôi và uống một ngụm. “Ừm. Ngon quá. Dù là tôi tự nói vậy thôi! Nào, giờ thì tôi không muốn buộc tội bất cứ ai là cư xử tệ cả. Nhưng chúng ta cần phải bắt đầu thu về một vài con số rồi. Vậy nếu tôi gọi vài cuộc điện thoại lịch thiệp sang Anh thì sẽ không sao chứ? Tôi đã có tất cả các số điện thoại trong cơ sở dữ liệu rồi...”
“Không!” tôi nói, đột nhiên bật dậy. “Đừng gọi ai cả! Ý tôi là... cô sẽ nhận được hồi âm, tôi hứa đấy.”
“Chỉ là rất lạ thôi!” Robyn trầm ngâm. “Chẳng nhận được tin tức gì... Tất cả bọn họ đều đã nhận được giấy mời, đúng không?”
“Đương nhiên là vậy! Tôi dám chắc đó chỉ là do sơ suất thôi.” Tôi bắt đầu vần vò khăn trải giường. “Cô sẽ nhận được hồi âm trong vòng một tuần thôi. Tôi có thể... bảo đảm như vậy.”
“Chà, tất nhiên tôi hy vọng vậy! Vì sắp hết thời gian! Chúng ta chỉ còn bốn tuần nữa thôi!”
“Tôi biết!” tôi thốt lên the thé và uống thêm một ngụm cà phê, thực lòng ao ước nó là vodka.
Bốn tuần.
Ôi Chúa ơi.
“Tôi rót thêm cho cưng nhé?” Robyn đứng dậy - rồi lại cúi xuống. “Cái gì đây?” chị ta nói với vẻ thích thú và nhặt một tờ giấy nằm trên sàn nhà. “Cái này có phải là thực đơn không?”
Tôi ngước lên nhìn - và tim tôi như ngừng đập. Chị ta cầm một trong số những tờ fax của mẹ.
Thực đơn của đám cưới kia.
Mọi thứ đều đang ở đó, ngay dưới gầm giường. Nếu chị ta bắt đầu nhìn...
“Không có gì!” tôi nói, giật lấy tờ giấy từ tay chị ta. “Chỉ là... ừm... thực đơn cho một... một bữa tiệc...”
“Cô sẽ tổ chức một bữa tiệc?”
“Chúng tôi... đang dự tính như vậy.”
“Phải rồi, nếu cô cần giúp đỡ lên kế hoạch tổ chức nó thì cứ nói nhé!” Robyn hạ giọng đầy tin tưởng. “Và lời khuyên nho nhỏ nhé?” Chị ta chỉ vào thực đơn của mẹ. “Tôi nghĩ cô sẽ thấy những món bánh và nem cuộn là hơi lỗi thời rồi.”
“Đúng vậy. Ơ... Cảm ơn.”
Tôi phải tống cổ người phụ nữ này ra khỏi đây. Ngay lập tức. Trước khi chị ta tìm ra cái gì khác nữa.
Bất thình lình, tôi quăng đám chăn ra đằng sau và nhảy ra khỏi giường.
“Robyn, thực ra thì tôi vẫn cảm thấy không được khỏe lắm. Chúng ta có thể... có thể bàn những việc còn lại vào một lúc khác không?”
“Tôi hiểu. Chị ta vỗ vai tôi. “Tôi sẽ để cô yên tĩnh nghỉ ngơi.”
“Nhân tiện,” tôi bỗng nói khi chúng tôi ra đến cửa. “Tôi chỉ thắc mắc... Cô biết điều khoản về tiền bồi thường trong bản hợp đồng của cô chứ?”
“Có!” Robyn tươi cười với tôi.
“Hỏi vì tò mò thôi.” Tôi cười nhỏ. “Cô đã bao giờ thực sự lấy khoản đó chưa?”
“Ồ, chỉ có vài lần thôi!” Robyn nói. Chị ta ngừng lại để hồi tưỏng. “Một cô nàng ngu xuẩn đã cố chạy trốn đến Phần Lan... nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn tìm thấy cô ta... Gặp lại cô sau nhé, Becky!”
“Hẹn gặp lại!” Tôi nói với cái giọng hớn hở phù hợp với giọng chị ta, đóng cửa lại, tim đập thình thịch.
Chị ta sẽ tóm được mình. Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.
***
Ngay khi tới nơi làm việc, tôi gọi điện đến văn phòng của Luke và gặp trợ lý của anh, Julia.
“Chào,” tôi nói, “tôi nói chuyện với Luke được không?”
“Luke đã gọi điện báo ốm,” Julia nói với giọng ngạc nhiên. “Cô không biết sao?”
Tôi kinh ngạc sững nhìn cái ống nghe. Luke bị ốm? Ồ! Có lẽ dư âm cơn say rượu của anh thậm chí còn kinh hoàng hơn của tôi.
Chết tiệt, suýt nữa là tôi làm lộ tẩy cả.
“Ồ phải!” tôi vội nói. “Đúng vậy! Giờ cô nhắc đến việc đó... Đương nhiên là tôi biết! Anh ấy bị sốt quá chừng. Và... bụng... bụng anh ấy. Tôi chợt quên mất, vậy thôi.”
“Vâng, cho chúng tôi gửi lời hỏi thăm anh ấy nhé.”
“Vâng!”
Khi đặt điện thoại xuống, tôi nhận ra là mình đã phản ứng hơi quá khích. Ý tôi là, đâu có ai định sa thải Luke đâu? Dù sao thì đó cũng là công ty của anh ấy mà.
Thực ra tôi hài lòng vì anh đã nghỉ một hôm.
Nhưng dù vậy. Luke đang bị ốm. Anh chẳng bao giờ ốm.
Và anh cũng không bao giờ tập chạy bộ. Chuyện gì thế nhỉ?
***
Lẽ ra tôi sẽ đi uống cùng Erin sau giờ làm, nhưng thay vào đó, tôi viện cớ để không đi và vội về nhà. Khi bước vào, căn hộ lờ mờ tối, và trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ Luke chưa về. Nhưng rồi tôi nhìn thấy anh đang ngồi buồn bã ở bàn, anh mặc quần thể thao và áo gió.
Rốt cuộc thì chúng tôi cũng có một buổi tối cho riêng mình. Được rồi, chính là lúc này đây. Cuối cùng tôi cũng sẽ nói cho anh biết mọi chuyện.
“Chào anh,” tôi nói và thả mình xuống chiếc ghế bên cạnh anh. “Anh thấy khá hơn rồi chứ? Em gọi tới chỗ làm của anh và họ nói anh bị ốm.”
Im lặng.
“Anh chẳng có tâm trí nào để đi làm,” cuối cùng Luke cũng nói.
“Anh đã làm gì suốt cả ngày nay? Có thực là anh đi chạy bộ không?”
“Anh đi dạo khá xa,” Luke nói. “Và anh đã suy nghĩ rất nhiều.”
“Về... mẹ anh?” Tôi ngập ngừng nói.
“Phải, về mẹ anh. Về rất nhiều thứ khác nữa.” Anh quay lại và tôi ngạc nhiên vì anh chưa cạo râu. Ừm. Thực ra tôi khá thích anh không cạo râu.
“Nhưng anh ổn chứ?”
“Đó là vấn đề,” anh nói sau một thoáng ngập ngừng. “Anh có ổn không?”
“Hẳn là tối qua anh đã uống hơi nhiều quá ấy mà.” Tôi vừa cởi áo khoác, vừa sắp xếp những lời sẽ nói. “Luke, nghe này. Có chuyện này rất quan trọng mà em cần phải nói với anh. Em đã trì hoãn vấn đề này mấy tuần nay rồi...”
“Becky, em đã bao giờ nghĩ đến những đường phố đan chéo nhau ở Manhattan chưa?” Luke ngắt lời tôi. “Thực sự nghĩ về nó?”
“Ờ... chưa,” tôi nói, do dự một lúc. “Em không thể nói là đã từng nghĩ về nó.”
“Nó giống như... một ẩn dụ cho cuộc đời. Em nghĩ mình tự do đi bất cứ đâu cũng được. Nhưng thực ra...” Anh dùng ngón tay vẽ một đường thẳng trên mặt bàn. “Em hoàn toàn bị điều khiển: lên hoặc xuống. Trái hoặc phải... Không có lựa chọn nào khác.”
“Đúng vậy,” tôi nói sau một thoáng ngập ngừng. “Tất nhiên rồi. Chuyện là thế này, Luke...”
“Cuộc đời nên là một không gian mở, Becky ạ. Em nên được bước đi trên bất cứ ngả đường nào em chọn. ”
“Em nghĩ...”
“Hôm nay anh đã đi bộ từ đầu này đến đầu kia hòn đảo này.”
“Thật sao?” Tôi nhìn anh chăm chú. “Ơ... tại sao?”
“Anh ngước lên nhìn ở một điểm, và anh bị vây quanh bởi những cao ốc văn phòng. Ánh mặt trời phản chiếu từ những cánh cửa sổ kính dày. Phản chiếu ngược xuôi.”
“Nghe có vẻ đẹp nhỉ,” tôi nói không thỏa đáng lắm.
“Em có hiểu những gì anh đang nói không đấy?” anh nhìn tôi chằm chằm, và đột nhiên tôi nhận thấy quầng thâm dưới mắt anh. Chúa ơi, trông anh mệt mỏi quá. “Ánh sáng vào Manhattan... và bị giam hãm. Bị giam hãm trong chính thế giới của nó, phản chiếu ngược xuôi mà không có lối thoát.”
“Chà... đúng thế, em nghĩ vậy. Trừ việc... đôi khi trời mưa, đúng không?”
“Và con người cũng thế.”
“Vậy sao?”
“Đây là thế giới mà hiện nay chúng ta đang sống. Tự suy tư. Tự ám ảnh. Cơ bản là vô nghĩa. Nhìn anh chàng trong bệnh viện xem. 33 tuổi - và anh ta bị đau tim. Nếu anh ta chết thì sao. Liệu anh ta đã có một cuộc đời mãn nguyện?”
“Ơ...
“Anh đã có một cuộc sống mãn nguyện chưa? Hãy nói thật cho anh biết, Becky. Nhìn anh và nói đi.”
“Chà... ừm... đương nhiên là có rồi!”
“Nhảm nhí” Anh lấy một tờ báo của Công ty Truyền thông Brandon mới phát hành và nhìn chằm chằm vào đó. “Cuộc đời anh chính là như thế này đây. Những mẩu tin tức vô nghĩa.” Trước sự choáng váng của tôi, anh bắt đầu xé tan nó ra. “Đám giấy lộn vô nghĩa chết tiệt.”
Đột nhiên tôi nhận thấy anh đang xé cả tờ kê khai tài khoản ngân hàng chung của chúng tôi nữa.
“Luke! Đó là tờ kê khai ngân hàng của chúng ta!”
“Thì sao nào? Nó quan trọng lắm sao? Chỉ là một vài con số vô nghĩa. Ai thèm quan tâm cơ chứ?”
“Nhưng... nhưng...”
Ở đây có gì đó không ổn.
“Có chút gì quan trọng không cơ chứ?” Anh tung vụn giấy lên sàn nhà, và tôi buộc lòng phải cúi xuống nhặt lên. “Becky, em thật có lý.”
“Em có lý?” Tôi cảnh giác nói.
Có cái gì đó rất không ổn ở đây.
“Tất cả chúng ta đều bị vật chất chi phối quá mức. Ám ảnh về sự thành công, về tiền, về việc cố gây ấn tượng với những người mà chẳng bao giờ bị ấn tượng, dù em có làm gì...” Đột nhiên anh ngừng lại, thở thật mạnh. “Chính tính nhân văn mới là quan trọng. Chúng ta nên hiểu biết về những người vô gia cư. Chúng ta nên hiểu biết những người nông dân Bolivia.”
“À... vâng,” tôi nói sau một thoáng ngập ngừng. “Tuy nhiên...”
“Cả ngày nay trong đầu anh luôn quay cuồng suy nghĩ về điều em đã nói trước đây. Và giờ thì anh không thể quên được.”
“Đó là gì?” Tôi lo lắng nói.
“Em đã nói...” anh ngập ngừng, dường như đang cố tìm từ ngữ thích hợp. “Em đã nói rằng chúng ta chỉ ở trên hành tinh này trong một khoảng thời gian quá ngắn. Và đến cuối cùng, điều gì là quan trọng hơn? Biết rằng một vài con số vô nghĩa cân bằng - hay biết rằng em là con người mà em mong muốn trở thành?”
Tôi há hốc mồm nhìn anh. “Nhưng... nhưng đó chỉ là những điều em bịa ra thôi! Em đã không nghiêm túc...”
“Anh không phải là con người mà anh muốn trở thành, Becky ạ. Anh không nghĩ mình đã có lúc nào là con người anh mong muốn. Anh đã bị che mắt. Anh đã bị ám ảnh bởi tất cả những thứ sai lầm...”
“Thôi nào!” tôi vừa nói vừa siết chặt tay anh đầy khích lệ. “Anh là Luke Brandon! Anh thành công, đẹp trai và giàu có...”
“Anh không phải là con người mà lẽ ra anh nên làm. Vấn đề là, bây giờ anh không biết con người đó là như thế nào. Anh không biết mình muốn trở thành ai... muốn làm gì với cuộc đời mình... nên đi con đường nào...” anh đổ sụp xuống phía trước và lấy tay ôm đầu. “Becky, anh cần có câu trả lời.”
Tôi không tin nổi điều này. Ở tuổi 34, Luke đang bị khủng hoảng trung niên.
**
NGN HÀNG SECOND UNION
53 PHỐ WALL
NEWYORK, NY 10005
Ngày 7 tháng Mười một, năm 2001
Cô Rebecca Bloomvvood
Căn hộ B 251 Phố 11 Tây
New York, NY 10014
Cô Bloomvvood thân mến,
Cảm ơn cô vì lá thư vào ngày 21 tháng Năm. Tôi rất vui là cô đã bắt đầu coi tôi là một người bạn tốt, và để trả lời cho câu hỏi của cô, sinh nhật của tôi là 31 tháng Mười.
Tôi cũng nghĩ rằng đám cưới là sự vụ rất tốn kém. Tuy nhiên, rất tiếc là tôi không thể nâng hạn mức thấu chi của cô từ 5.000 đô la lên 105.000 đô la vào thời điểm này được.
Thay vào đó, tôi có thể sẵn sàng giúp cô tăng hạn mức lên 6.000 đô la, và tôi hy vọng điều này sẽ giúp được cho cô phần nào.
Trân trọng,
Walt Pitman
Giám đốc Dịch vụ Khách hàng
***
Số 49 đường Drakeford
Potters Bar
Hertfordshire
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông Malcolm Bloomwood cảm ơn bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự dám cưới của Becky và Luke tại Plaza ngày 22 tháng Sáu. Nhưng không may là ông ấy phải từ chối vì ông bị gãy chân.
***
The Oaks
Số 41 Đường Elton
Oxshott, Surrey
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông bà Martin Webster cảm ơn bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và Luke tại Plaze ngày 22 tháng Sáu. Nhưng thật không may là họ phải từ chối, vì cả hai đều bị viêm tuyến bạch cầu.
***
Số 9 đường Foxtrot
Reigate
Surrey
Ngày 27 tháng Năm năm 2002
Ông bà Tom Webster cảm ơn bà Elinor Sherman rất nhiều vì lời mời thân ái đến dự đám cưới của Becky và LuketạiPlaza ngày 22 tháng Sáu. Nhưng thật không may là họ phải từ chối vì con chó cưng của họ vừa qua đời.