Phiêu Miểu 5 - Quyển Nhiên Tê
Chương 22
Sau khi Võ Hậu phế truất Trung Tông Lý Hiển, lập con út Lý Đán làm hoàng đế, tức Đường Duệ Tông. Khi Đường Duệ Tông lên ngôi, bị Võ Hậu giam cầm trong cung sâu, không được tham gia triều chính.
Võ Hậu danh nghĩa là Thái Hậu nhưng thực chất là ngôi vị hoàng đế. Việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Hậu quyết định, văn võ bá quan đều tôn kính Võ Hậu, không ai dám không tuân theo.
Năm đó, có mười sa môn(1) dâng "Kinh Đại Vân"(2) lên Võ Hậu. "Kinh Đại Vân" nói rằng, Tịnh Quang nữ thần đã từng nghe "kinh Đại Bát Niết Bàn" tại nơi Phật Nhiên Đăng, sau đó khi đến thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni, bà lại hạ phàm làm người, lần nữa nghe giáo lý Phật pháp, trở thành vua, được lãnh thổ của chuyển luân vương, giáo hóa dân chúng làm nhiều việc thiện.
(1) Sa môn: Thuật ngữ Phật giáo. Còn gọi là “bà môn”, “sang môn”, có nghĩa là siêng năng, ngừng tâm, sạch lòng là cách gọi chung cho các tông phái và dòng suy nghĩ phi Bà La Môn.
“Kinh Đại Vân”: Tên đầy đủ là “Kinh Đại Vân Thần Hoàng Thụ Ký Nghĩa Sớ”.
Võ Hậu sớm đã có ý định xưng đế nhưng thiếu một lời nói đại diện cho “thiên ý”, bà rất hài lòng với lời trong "Kinh Đại Vân" rằng “nữ vương sẽ thống trị thiên hạ, tất cả lãnh thổ đều quy phục” và “lấy thân nữ vương trị quốc”. Võ Hậu không chỉ trọng thưởng mười sa môn, mà còn xây dựng nhiều chùa Đại Vân trên khắp đất nước để quảng bá Phật pháp, tự xưng là “Phật đệ tử”, “nữ Bồ Tát”.
Võ Hậu coi trọng Phật, trên dưới noi theo, trong thời gian ngắn, Tây Kinh Trường An, Đông Đô Lạc Dương đều nổi lên phong trào bàn luận thiền Phật.
Đầu hè gió mát, cỏ cây tươi tốt.
Khu phố Tấn Xương, chùa Đại Từ Ân.
Chùa Đại Từ Ân là ngôi chùa hùng vĩ nhất Trường An, chiếm nửa khu phố Tấn Xương, có mười ba sân vườn, một nghìn chín trăm gian nhà. Chùa này do Đường Cao Tông xây dựng để tưởng nhớ mẫu thân là Trưởng Tôn Hoàng hậu, đó là ngôi chùa hoàng gia.
Khác với các chùa thông thường như chùa Thanh Long, chùa Giới Phật, chùa Đại Từ Ân ngoài việc tổ chức các lễ hội hoàng gia, đại hội vô ngại, hoặc các ngày lễ Phật giáo, bình thường không mở cửa cho dân thường.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng bên ngoài chùa Đại Từ Ân, chờ tăng nhân vào thông báo.
Bạch Cơ mặc một bộ y phục nam màu bạc, chờ đợi một cách thành kính.
Nguyên Diệu không kìm được nói: “Bạch Cơ muốn nghe cao tăng giảng Phật lý, có thể đến chùa Thanh Long tìm Hoài Tú thiền sư, sao phải đi xa đến chùa Đại Từ Ân, không thấy mệt à.”
Bạch Cơ cười nói: “Có thể nghe cao tăng luận thiền, dù ngàn dặm ta cũng nguyện đi.”
Nguyên Diệu nói: “Hoài Tú thiền sư là cao tăng đắc đạo hàng đầu Trường An, trong đại hội vô ngại, ông đã khiến trụ trì hư không của chùa Đại Từ Ân phải câm lặng.”
Bạch Cơ cười đáp: “Ta đến chùa Đại Từ Ân không phải để gặp Hư Không thiền sư.”
“Vậy ngươi muốn gặp ai?”
“Huyền Trang.”
Nguyên Diệu không biết nhiều về Phật giáo nhưng cũng từng nghe danh Huyền Trang.
Năm Trinh Quán đầu tiên, Huyền Trang một mình đi về phía tây năm vạn dặm để tìm kiếm Phật pháp, trải qua gian khổ, không sợ chết, đến trung tâm Phật giáo Thiên Trúc là Na Lan Đà Tự để lấy kinh. Ông đi mười bảy năm, qua một trăm mười quốc gia, học đủ các học thuyết Phật giáo từ Tây Vực đến Thiên Trúc và mang về hơn sáu trăm cuốn kinh Phật.
Sau khi Huyền Trang về nước, được Đường Thái Tông đón tiếp trọng thể, trong một thời gian ngắn, cả nước đều biết đến vị thánh tăng này. Sau đó, Huyền Trang lập viện dịch kinh, dịch các kinh Phật mang về, và viết cuốn "Đại Đường Tây Vực Ký". Thời Đường Cao Tông, Huyền Trang dịch kinh giảng pháp tại chùa Đại Từ Ân, và xây dựng tháp Đại Nhạn. Sau này, Cao Tông chuyển cung Ngọc Hoa Sơn thành chùa Ngọc Hoa, ban cho Huyền Trang cư trú, phần lớn thời gian ông ở chùa Ngọc Hoa dịch kinh viết sách.
“Thiền sư Huyền Trang ở chùa Đại Từ Ân sao?!”
“Võ Hậu để quảng bá "Kinh Đại Vân", tổ chức Bách Tăng Yến, cố ý mời Thiền sư Huyền Trang. Nghe quan trên nói, Huyền Trang hiện đang ở chùa Đại Từ Ân.”
Bạch Cơ và Nguyên Diệu đang nói chuyện thì tăng nhân vào thông báo bước ra.
Tăng nhân chắp tay, lễ phép nói: “A Di Đà Phật. Thiền sư Huyền Trang cho mời, xin mời hai vị thí chủ theo ta.”
Nguyên Diệu vội vã cúi đầu, nói: “Phiền đại sư.”
Bạch Cơ và Nguyên Diệu theo tăng nhân dẫn đường bước vào chùa Đại Từ Ân.
Trong chùa Đại Từ Ân, những bức tường cầu vồng, cây xanh um tùm, cổng núi hùng vĩ trang nghiêm, mái ngói lưu ly của Đại Hùng Bảo điện tỏa sáng Phật quang. Dọc theo đường đi, những gian nhà chồng lớp, lầu chuông trống trang nghiêm, cây bồ đề xanh tươi cao lớn ngoài Tàng Kinh Các, phía tây là một nghìn chín trăm gian tăng xá, chia thành mười ba sân vườn, mái nhà màu xám xanh như từng mảnh bóng lướt trên ánh sáng.
Tăng nhân dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến dưới tháp Đại Nhạn.
Tháp Đại Nhạn cao khoảng ba mươi trượng, chân tháp có hình vuông, tổng cộng bảy tầng. Bên trong tháp Đại Nhạn thờ phụng tượng Phật, xá lợi mà Huyền Trang mang về từ Thiên Trúc, cùng với hơn sáu trăm cuốn kinh lá Bối* từ Phật quốc.
* Kinh Bối Diệp: Người cổ Ấn Độ lấy lá cây Bối Đa La để viết kinh Phật. Tương truyền, kinh sách Huyền Trang mang từ Thiên Trúc về đều là kinh Bối Diệp. Ngày nay, kinh Bối Diệp còn tồn tại là bảo vật quốc gia cấp một, có giá trị rất cao, được gọi là “gấu trúc Phật giáo”.
Bên ngoài tháp Đại Nhạn có bốn vị tăng võ mặc áo vàng canh gác, sau khi tăng nhân dẫn đường chào hỏi, dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu vào trong tháp Đại Nhạn.
Nguyên Diệu vừa bước vào bên trong tháp thì thấy tầng một đầy ắp các kệ sách chứa kinh điển. Gần cửa sổ hướng nam, có một bàn dài khoảng hai mét bằng gỗ lê, trên bàn đặt bốn vật dụng viết lách và một đống sách cuộn.
Một vị lão tăng mặc áo trắng đang cắm cúi viết.
Lão tăng trông đã hơn bảy mươi tuổi, tóc trắng như cước, mặt đầy nếp nhăn nhưng dáng người vẫn thẳng như cây tùng. Trên bàn tay khô héo như vỏ cây của ông là một chuỗi tràng hạt, ông cầm bút viết những nét chữ như rồng bay phượng múa.
Lão tăng rất chuyên chú, ánh mắt trong sáng, giữa đôi mày chứa đựng đại trí tuệ.
Bạch Cơ cúi chào theo kiểu Phật giáo, nói: “Thiền sư Huyền Trang, đã lâu không gặp rồi.”
Thì ra đây là Thiền sư Huyền Trang nổi tiếng.
Nguyên Diệu vội vã cúi đầu chào theo kiểu Phật giáo.
Huyền Trang ngẩng đầu nhìn, nói: “Ồ là ngươi à.”
Huyền Trang liếc nhìn Nguyên Diệu, lại nói: “Ồ là hắn à.”
Bạch Cơ tiến lên, ngồi kết già đối diện Huyền Trang.
Nguyên Diệu suy nghĩ một lúc vẫn đứng yên ở bên cạnh.
Bạch Cơ cười nói: “Nghe nói Thiền sư Huyền Trang đã đến Trường An, ta cố ý đến thăm, muốn nhờ thiền sư giải đáp một số điều thắc mắc.”
Huyền Trang không dừng bút, nói: “Ngươi là thiên long, sống vạn năm, núi sông biến đổi, sao lại có điều gì thắc mắc?”
Bạch Cơ cười đáp: “Một năm thấy xuân qua thu đến, mười năm thấy vật đổi sao dời, trăm năm thấy sinh lão bệnh tử, nghìn năm thấy triều đại hưng vong, vạn năm thấy biển cả đổi dời. Về thời gian, ta không có thắc mắc, thắc mắc của ta đến từ kinh Phật và thiền lý.”
Huyền Trang nói: “A Di Đà Phật! Trong lòng ngươi không có Phật, đọc bao nhiêu kinh Phật cũng không giải quyết được thắc mắc của ngươi.”
Bạch Cơ cười nói: “Trong lòng ta không có Phật nhưng trong mắt ta có thiền, xin Thiền sư Huyền Trang giải đáp thắc mắc cho ta.”
Huyền Trang nói: “Xin cứ nói.”
Bạch Cơ nói: “Dám hỏi Thiền sư Huyền Trang, ngài nghĩ thế nào về "Kinh Đại Vân"? Đây là kinh thật hay kinh giả?”
Nguyên Diệu ngạc nhiên, không hiểu tại sao Bạch Cơ lại hỏi Huyền Trang vấn đề này. Mặc dù có tin đồn rằng "Kinh Đại Vân" do mười sa môn bịa ra để nịnh hót Võ Hậu nhưng các quan đại thần nghi ngờ về tính xác thực của "Kinh Đại Vân" đều bị Lai Tuấn Thần bắt vào ngục. Võ Hậu ngầm cho phép Lai Tuấn Thần dùng hình phạt tàn khốc để bịt miệng, mọi người cũng không dám nói gì nữa.
Tại sao Bạch Cơ lại cố ý đến chùa Đại Từ Ân để hỏi Huyền Trang vấn đề này? "Kinh Đại Vân" là thật hay giả, liên quan gì đến nàng ấy chứ?
Huyền Trang không ngẩng đầu, nói: “Mọi pháp đều do duyên sinh. Mọi kinh thật đều vì chúng sinh. Tất cả những gì có hình tướng đều là hư vọng. Vạn pháp đều không, sao lại có thật hay giả?”
Bạch Cơ có hơi bối rối.
Nguyên Diệu cũng nghe mà ngơ ngác, không nhịn được hỏi: “Dám hỏi Thiền sư Huyền Trang, lời ngài nói có ý nghĩa gì?”
Huyền Trang ngẩng đầu nhìn Nguyên Diệu một cái, nói: “A Di Đà Phật! Phật giáo ban đầu không có ghi chép văn tự, mọi giáo lý của Phật đều do đệ tử truyền miệng. Sau khi Phật nhập niết bàn, trải qua hàng trăm ngàn năm, lời dạy của Phật mới thành văn bản, từ Thiên Trúc qua Tây Vực, truyền vào Trung Thổ, được dịch thành chữ Hán. Nếu xét theo tiêu chuẩn thật giả thì sáu trăm cuốn kinh lá Bối trong tháp Đại Nhạn này của bần tăng đều là lời hư vọng.”
Nguyên Diệu vẫn ngơ ngác nhưng Bạch Cơ dường như đã hiểu rõ.
Bạch Cơ chắp tay, cười nói: “Cảm ơn thiền sư đã giải đáp thắc mắc.”
Bạch Cơ tiếp tục cùng Huyền Trang bàn luận về nghĩa lý trong kinh Phật, lúc này Huyền Trang mới đặt bút xuống, cùng Bạch Cơ luận bàn. Nguyên Diệu không hiểu họ đang nói gì, chỉ nghe thấy toàn là “vô tướng”, “vô niệm”, “vạn pháp duyên sinh”, “linh trí linh đài”.
Bạch Cơ và Huyền Trang bàn luận sôi nổi, Nguyên Diệu nghe mà buồn ngủ, đứng một bên gật gù như gà mổ thóc.
Nguyên Diệu đang buồn ngủ thì bất ngờ có một tăng nhân ngoài tháp Đại Nhạn lớn tiếng nói: “Thiền sư Huyền Trang, sư phụ Xứ Tịch* xin gặp.”
* Xứ Tịch: Cao tăng đời Đường, họ tục là Đường, người Phù Thành, Tứ Xuyên. Ông học thiền dưới sự chỉ dạy của thiền sư Hoằng Nhẫn, tổ thứ năm của thiền tông, tu thiền siêng năng, Phật pháp uyên thâm. Trước khi Võ Tắc Thiên lên ngôi hoàng đế, muốn phong Xứ Tịch làm quốc sư nhưng ông từ chối. Võ Tắc Thiên ban cho ông áo cà sa, cho phép ông về Thục.
Huyền Trang đáp: “A Di Đà Phật! Mời ông ấy vào.”
Một lúc sau, một tăng nhân mặc áo đen bước vào.
Tăng nhân áo đen chỉ khoảng hai mươi tuổi, gương mặt tuấn tú, mày thanh mắt sáng. Dáng người thon gọn, cao ráo như cây lan ngọc, bước đi nhẹ nhàng như mây gió.
“A Di Đà Phật! Bần tăng bái kiến Thiền sư Huyền Trang.”
Xứ Tịch cúi chào Huyền Trang theo kiểu Phật giáo.
Huyền Trang cũng chào lại một lễ Phật.
Xứ Tịch lại cúi chào Bạch Cơ và Nguyên Diệu rồi ngồi đối diện với Huyền Trang.
“Bần tăng luôn du hành tại vùng đất phía Bắc, truyền giảng kinh điển. Nhận được chiếu chỉ của Võ Hậu tham dự bữa Bách Tăng Yến, bần tăng khởi hành từ U Châu, ngày đêm kiên trì, không ngừng nghỉ, hôm qua mới đến Trường An. Khi bần tăng đi qua núi Hùng Nhĩ đã gặp một sự việc kỳ lạ. Bần tăng suy nghĩ mãi không giải đáp được. Thiền sư Huyền Trang đã du hành Tây Vực, kiến thức uyên bác, bần tăng cố ý đến thỉnh giáo thiền sư để giải đáp thắc mắc.”
Huyền Trang nói: “Xin mời nói.”
Xứ Tịch chắp tay, nói: “Bần tăng trên đường đến Trường An, đi qua núi Hùng Nhĩ, dừng chân tại chùa Không Tướng. Tối đó, sau khi lễ Phật, bần tăng nghỉ ngơi. Trong giấc mơ, tổ sư Đạt Ma cầm một chiếc đèn đến gặp, cùng bần tăng biện luận về vô tướng Phật, pháp không tịch. Sau khi biện luận xong, tổ sư Đạt Ma bày tỏ sự thương tiếc, trao cho bần tăng một quyển sách. Tổ sư Đạt Ma nói ‘Không minh thiền’ rồi biến mất. Bần tăng tỉnh dậy, thiền phòng yên tĩnh, đèn dầu lập lòe, trong lúc bần tăng đang mơ màng thì phát hiện trên tay cầm một quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền. Giấc mơ này như thật như ảo khiến người ta bối rối, quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền này cũng làm người ta suy nghĩ mãi không thông.”
Xứ Tịch nói xong, lấy trong tay áo ra một quyển sách, cung kính đặt lên bàn gỗ lê.
Huyền Trang cầm quyển sách lên, lật xem.
Đó là một quyển sách đã ngả vàng, bìa sách không có chữ, bên trong cũng trống không.
Huyền Trang đưa quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền cho Bạch Cơ, nói: “A Di Đà Phật! Long thí chủ giải thích thế nào về không minh thiền này?”
Bạch Cơ cầm quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền, tay nàng run nhẹ, trong mắt lóe lên ánh sáng kỳ lạ.
“À, quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền này tuy không có chữ nào nhưng lại tràn đầy dục vọng và chấp niệm... Thiền sư Huyền Trang, ta chỉ là một thương nhân ở chợ Tây, kiến thức nông cạn, không thể giải thích được không minh thiền sâu xa này.”
Huyền Trang nhìn chăm chú vào quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền, suy nghĩ một lúc, dường như cũng không hiểu được.
Xứ Tịch cung kính nói: “A Di Đà Phật! Thiền sư Huyền Trang có thể từ từ tham cứu, nếu hiểu được ý nghĩa, xin khai thị cho bần tăng. Bần tăng xin cáo từ trước.”
Huyền Trang khẽ gật đầu.
Sau khi Xứ Tịch cáo từ, Huyền Trang cầm quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền, rơi vào trạng thái tham cứu không minh thiền.
Bạch Cơ thấy vậy thì cũng cáo từ.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước ra khỏi tháp Đại Nhạn, bên ngoài ánh nắng rực rỡ, cỏ cây xanh tươi, tràn đầy sức sống.
Một vị tăng nhân dẫn đường đưa Bạch Cơ và Nguyên Diệu ra ngoài, Bạch Cơ nói lâu lâu mới đến đây, thời gian còn sớm, muốn đến Đại Hùng Bảo điện để dâng một nén nhang cho Phật Tổ. Tăng nhân dẫn đường bèn dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu đi qua khu tăng xá, đến Đại Hùng Bảo Điện.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu dâng hương xong, cũng dâng chút tiền dầu nhang, Bạch Cơ ngửi thấy mùi thức ăn từ nhà ăn chay Ngũ Quán Đường phía đông bay đến, lại nói bụng đói, muốn xin một bát cơm chay ăn.
Người xuất gia phổ độ chúng sinh, giúp đỡ người khác, tăng nhân dẫn đường đành đưa Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến Ngũ Quán Đường* ăn cơm chay.
* Ngũ Quán Đường: Nhà ăn chay, nơi cung cấp bữa ăn cho tăng nhân trong chùa.
Võ Hậu danh nghĩa là Thái Hậu nhưng thực chất là ngôi vị hoàng đế. Việc lớn nhỏ trong triều đều do Võ Hậu quyết định, văn võ bá quan đều tôn kính Võ Hậu, không ai dám không tuân theo.
Năm đó, có mười sa môn(1) dâng "Kinh Đại Vân"(2) lên Võ Hậu. "Kinh Đại Vân" nói rằng, Tịnh Quang nữ thần đã từng nghe "kinh Đại Bát Niết Bàn" tại nơi Phật Nhiên Đăng, sau đó khi đến thời đại Phật Thích Ca Mâu Ni, bà lại hạ phàm làm người, lần nữa nghe giáo lý Phật pháp, trở thành vua, được lãnh thổ của chuyển luân vương, giáo hóa dân chúng làm nhiều việc thiện.
(1) Sa môn: Thuật ngữ Phật giáo. Còn gọi là “bà môn”, “sang môn”, có nghĩa là siêng năng, ngừng tâm, sạch lòng là cách gọi chung cho các tông phái và dòng suy nghĩ phi Bà La Môn.
“Kinh Đại Vân”: Tên đầy đủ là “Kinh Đại Vân Thần Hoàng Thụ Ký Nghĩa Sớ”.
Võ Hậu sớm đã có ý định xưng đế nhưng thiếu một lời nói đại diện cho “thiên ý”, bà rất hài lòng với lời trong "Kinh Đại Vân" rằng “nữ vương sẽ thống trị thiên hạ, tất cả lãnh thổ đều quy phục” và “lấy thân nữ vương trị quốc”. Võ Hậu không chỉ trọng thưởng mười sa môn, mà còn xây dựng nhiều chùa Đại Vân trên khắp đất nước để quảng bá Phật pháp, tự xưng là “Phật đệ tử”, “nữ Bồ Tát”.
Võ Hậu coi trọng Phật, trên dưới noi theo, trong thời gian ngắn, Tây Kinh Trường An, Đông Đô Lạc Dương đều nổi lên phong trào bàn luận thiền Phật.
Đầu hè gió mát, cỏ cây tươi tốt.
Khu phố Tấn Xương, chùa Đại Từ Ân.
Chùa Đại Từ Ân là ngôi chùa hùng vĩ nhất Trường An, chiếm nửa khu phố Tấn Xương, có mười ba sân vườn, một nghìn chín trăm gian nhà. Chùa này do Đường Cao Tông xây dựng để tưởng nhớ mẫu thân là Trưởng Tôn Hoàng hậu, đó là ngôi chùa hoàng gia.
Khác với các chùa thông thường như chùa Thanh Long, chùa Giới Phật, chùa Đại Từ Ân ngoài việc tổ chức các lễ hội hoàng gia, đại hội vô ngại, hoặc các ngày lễ Phật giáo, bình thường không mở cửa cho dân thường.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng bên ngoài chùa Đại Từ Ân, chờ tăng nhân vào thông báo.
Bạch Cơ mặc một bộ y phục nam màu bạc, chờ đợi một cách thành kính.
Nguyên Diệu không kìm được nói: “Bạch Cơ muốn nghe cao tăng giảng Phật lý, có thể đến chùa Thanh Long tìm Hoài Tú thiền sư, sao phải đi xa đến chùa Đại Từ Ân, không thấy mệt à.”
Bạch Cơ cười nói: “Có thể nghe cao tăng luận thiền, dù ngàn dặm ta cũng nguyện đi.”
Nguyên Diệu nói: “Hoài Tú thiền sư là cao tăng đắc đạo hàng đầu Trường An, trong đại hội vô ngại, ông đã khiến trụ trì hư không của chùa Đại Từ Ân phải câm lặng.”
Bạch Cơ cười đáp: “Ta đến chùa Đại Từ Ân không phải để gặp Hư Không thiền sư.”
“Vậy ngươi muốn gặp ai?”
“Huyền Trang.”
Nguyên Diệu không biết nhiều về Phật giáo nhưng cũng từng nghe danh Huyền Trang.
Năm Trinh Quán đầu tiên, Huyền Trang một mình đi về phía tây năm vạn dặm để tìm kiếm Phật pháp, trải qua gian khổ, không sợ chết, đến trung tâm Phật giáo Thiên Trúc là Na Lan Đà Tự để lấy kinh. Ông đi mười bảy năm, qua một trăm mười quốc gia, học đủ các học thuyết Phật giáo từ Tây Vực đến Thiên Trúc và mang về hơn sáu trăm cuốn kinh Phật.
Sau khi Huyền Trang về nước, được Đường Thái Tông đón tiếp trọng thể, trong một thời gian ngắn, cả nước đều biết đến vị thánh tăng này. Sau đó, Huyền Trang lập viện dịch kinh, dịch các kinh Phật mang về, và viết cuốn "Đại Đường Tây Vực Ký". Thời Đường Cao Tông, Huyền Trang dịch kinh giảng pháp tại chùa Đại Từ Ân, và xây dựng tháp Đại Nhạn. Sau này, Cao Tông chuyển cung Ngọc Hoa Sơn thành chùa Ngọc Hoa, ban cho Huyền Trang cư trú, phần lớn thời gian ông ở chùa Ngọc Hoa dịch kinh viết sách.
“Thiền sư Huyền Trang ở chùa Đại Từ Ân sao?!”
“Võ Hậu để quảng bá "Kinh Đại Vân", tổ chức Bách Tăng Yến, cố ý mời Thiền sư Huyền Trang. Nghe quan trên nói, Huyền Trang hiện đang ở chùa Đại Từ Ân.”
Bạch Cơ và Nguyên Diệu đang nói chuyện thì tăng nhân vào thông báo bước ra.
Tăng nhân chắp tay, lễ phép nói: “A Di Đà Phật. Thiền sư Huyền Trang cho mời, xin mời hai vị thí chủ theo ta.”
Nguyên Diệu vội vã cúi đầu, nói: “Phiền đại sư.”
Bạch Cơ và Nguyên Diệu theo tăng nhân dẫn đường bước vào chùa Đại Từ Ân.
Trong chùa Đại Từ Ân, những bức tường cầu vồng, cây xanh um tùm, cổng núi hùng vĩ trang nghiêm, mái ngói lưu ly của Đại Hùng Bảo điện tỏa sáng Phật quang. Dọc theo đường đi, những gian nhà chồng lớp, lầu chuông trống trang nghiêm, cây bồ đề xanh tươi cao lớn ngoài Tàng Kinh Các, phía tây là một nghìn chín trăm gian tăng xá, chia thành mười ba sân vườn, mái nhà màu xám xanh như từng mảnh bóng lướt trên ánh sáng.
Tăng nhân dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến dưới tháp Đại Nhạn.
Tháp Đại Nhạn cao khoảng ba mươi trượng, chân tháp có hình vuông, tổng cộng bảy tầng. Bên trong tháp Đại Nhạn thờ phụng tượng Phật, xá lợi mà Huyền Trang mang về từ Thiên Trúc, cùng với hơn sáu trăm cuốn kinh lá Bối* từ Phật quốc.
* Kinh Bối Diệp: Người cổ Ấn Độ lấy lá cây Bối Đa La để viết kinh Phật. Tương truyền, kinh sách Huyền Trang mang từ Thiên Trúc về đều là kinh Bối Diệp. Ngày nay, kinh Bối Diệp còn tồn tại là bảo vật quốc gia cấp một, có giá trị rất cao, được gọi là “gấu trúc Phật giáo”.
Bên ngoài tháp Đại Nhạn có bốn vị tăng võ mặc áo vàng canh gác, sau khi tăng nhân dẫn đường chào hỏi, dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu vào trong tháp Đại Nhạn.
Nguyên Diệu vừa bước vào bên trong tháp thì thấy tầng một đầy ắp các kệ sách chứa kinh điển. Gần cửa sổ hướng nam, có một bàn dài khoảng hai mét bằng gỗ lê, trên bàn đặt bốn vật dụng viết lách và một đống sách cuộn.
Một vị lão tăng mặc áo trắng đang cắm cúi viết.
Lão tăng trông đã hơn bảy mươi tuổi, tóc trắng như cước, mặt đầy nếp nhăn nhưng dáng người vẫn thẳng như cây tùng. Trên bàn tay khô héo như vỏ cây của ông là một chuỗi tràng hạt, ông cầm bút viết những nét chữ như rồng bay phượng múa.
Lão tăng rất chuyên chú, ánh mắt trong sáng, giữa đôi mày chứa đựng đại trí tuệ.
Bạch Cơ cúi chào theo kiểu Phật giáo, nói: “Thiền sư Huyền Trang, đã lâu không gặp rồi.”
Thì ra đây là Thiền sư Huyền Trang nổi tiếng.
Nguyên Diệu vội vã cúi đầu chào theo kiểu Phật giáo.
Huyền Trang ngẩng đầu nhìn, nói: “Ồ là ngươi à.”
Huyền Trang liếc nhìn Nguyên Diệu, lại nói: “Ồ là hắn à.”
Bạch Cơ tiến lên, ngồi kết già đối diện Huyền Trang.
Nguyên Diệu suy nghĩ một lúc vẫn đứng yên ở bên cạnh.
Bạch Cơ cười nói: “Nghe nói Thiền sư Huyền Trang đã đến Trường An, ta cố ý đến thăm, muốn nhờ thiền sư giải đáp một số điều thắc mắc.”
Huyền Trang không dừng bút, nói: “Ngươi là thiên long, sống vạn năm, núi sông biến đổi, sao lại có điều gì thắc mắc?”
Bạch Cơ cười đáp: “Một năm thấy xuân qua thu đến, mười năm thấy vật đổi sao dời, trăm năm thấy sinh lão bệnh tử, nghìn năm thấy triều đại hưng vong, vạn năm thấy biển cả đổi dời. Về thời gian, ta không có thắc mắc, thắc mắc của ta đến từ kinh Phật và thiền lý.”
Huyền Trang nói: “A Di Đà Phật! Trong lòng ngươi không có Phật, đọc bao nhiêu kinh Phật cũng không giải quyết được thắc mắc của ngươi.”
Bạch Cơ cười nói: “Trong lòng ta không có Phật nhưng trong mắt ta có thiền, xin Thiền sư Huyền Trang giải đáp thắc mắc cho ta.”
Huyền Trang nói: “Xin cứ nói.”
Bạch Cơ nói: “Dám hỏi Thiền sư Huyền Trang, ngài nghĩ thế nào về "Kinh Đại Vân"? Đây là kinh thật hay kinh giả?”
Nguyên Diệu ngạc nhiên, không hiểu tại sao Bạch Cơ lại hỏi Huyền Trang vấn đề này. Mặc dù có tin đồn rằng "Kinh Đại Vân" do mười sa môn bịa ra để nịnh hót Võ Hậu nhưng các quan đại thần nghi ngờ về tính xác thực của "Kinh Đại Vân" đều bị Lai Tuấn Thần bắt vào ngục. Võ Hậu ngầm cho phép Lai Tuấn Thần dùng hình phạt tàn khốc để bịt miệng, mọi người cũng không dám nói gì nữa.
Tại sao Bạch Cơ lại cố ý đến chùa Đại Từ Ân để hỏi Huyền Trang vấn đề này? "Kinh Đại Vân" là thật hay giả, liên quan gì đến nàng ấy chứ?
Huyền Trang không ngẩng đầu, nói: “Mọi pháp đều do duyên sinh. Mọi kinh thật đều vì chúng sinh. Tất cả những gì có hình tướng đều là hư vọng. Vạn pháp đều không, sao lại có thật hay giả?”
Bạch Cơ có hơi bối rối.
Nguyên Diệu cũng nghe mà ngơ ngác, không nhịn được hỏi: “Dám hỏi Thiền sư Huyền Trang, lời ngài nói có ý nghĩa gì?”
Huyền Trang ngẩng đầu nhìn Nguyên Diệu một cái, nói: “A Di Đà Phật! Phật giáo ban đầu không có ghi chép văn tự, mọi giáo lý của Phật đều do đệ tử truyền miệng. Sau khi Phật nhập niết bàn, trải qua hàng trăm ngàn năm, lời dạy của Phật mới thành văn bản, từ Thiên Trúc qua Tây Vực, truyền vào Trung Thổ, được dịch thành chữ Hán. Nếu xét theo tiêu chuẩn thật giả thì sáu trăm cuốn kinh lá Bối trong tháp Đại Nhạn này của bần tăng đều là lời hư vọng.”
Nguyên Diệu vẫn ngơ ngác nhưng Bạch Cơ dường như đã hiểu rõ.
Bạch Cơ chắp tay, cười nói: “Cảm ơn thiền sư đã giải đáp thắc mắc.”
Bạch Cơ tiếp tục cùng Huyền Trang bàn luận về nghĩa lý trong kinh Phật, lúc này Huyền Trang mới đặt bút xuống, cùng Bạch Cơ luận bàn. Nguyên Diệu không hiểu họ đang nói gì, chỉ nghe thấy toàn là “vô tướng”, “vô niệm”, “vạn pháp duyên sinh”, “linh trí linh đài”.
Bạch Cơ và Huyền Trang bàn luận sôi nổi, Nguyên Diệu nghe mà buồn ngủ, đứng một bên gật gù như gà mổ thóc.
Nguyên Diệu đang buồn ngủ thì bất ngờ có một tăng nhân ngoài tháp Đại Nhạn lớn tiếng nói: “Thiền sư Huyền Trang, sư phụ Xứ Tịch* xin gặp.”
* Xứ Tịch: Cao tăng đời Đường, họ tục là Đường, người Phù Thành, Tứ Xuyên. Ông học thiền dưới sự chỉ dạy của thiền sư Hoằng Nhẫn, tổ thứ năm của thiền tông, tu thiền siêng năng, Phật pháp uyên thâm. Trước khi Võ Tắc Thiên lên ngôi hoàng đế, muốn phong Xứ Tịch làm quốc sư nhưng ông từ chối. Võ Tắc Thiên ban cho ông áo cà sa, cho phép ông về Thục.
Huyền Trang đáp: “A Di Đà Phật! Mời ông ấy vào.”
Một lúc sau, một tăng nhân mặc áo đen bước vào.
Tăng nhân áo đen chỉ khoảng hai mươi tuổi, gương mặt tuấn tú, mày thanh mắt sáng. Dáng người thon gọn, cao ráo như cây lan ngọc, bước đi nhẹ nhàng như mây gió.
“A Di Đà Phật! Bần tăng bái kiến Thiền sư Huyền Trang.”
Xứ Tịch cúi chào Huyền Trang theo kiểu Phật giáo.
Huyền Trang cũng chào lại một lễ Phật.
Xứ Tịch lại cúi chào Bạch Cơ và Nguyên Diệu rồi ngồi đối diện với Huyền Trang.
“Bần tăng luôn du hành tại vùng đất phía Bắc, truyền giảng kinh điển. Nhận được chiếu chỉ của Võ Hậu tham dự bữa Bách Tăng Yến, bần tăng khởi hành từ U Châu, ngày đêm kiên trì, không ngừng nghỉ, hôm qua mới đến Trường An. Khi bần tăng đi qua núi Hùng Nhĩ đã gặp một sự việc kỳ lạ. Bần tăng suy nghĩ mãi không giải đáp được. Thiền sư Huyền Trang đã du hành Tây Vực, kiến thức uyên bác, bần tăng cố ý đến thỉnh giáo thiền sư để giải đáp thắc mắc.”
Huyền Trang nói: “Xin mời nói.”
Xứ Tịch chắp tay, nói: “Bần tăng trên đường đến Trường An, đi qua núi Hùng Nhĩ, dừng chân tại chùa Không Tướng. Tối đó, sau khi lễ Phật, bần tăng nghỉ ngơi. Trong giấc mơ, tổ sư Đạt Ma cầm một chiếc đèn đến gặp, cùng bần tăng biện luận về vô tướng Phật, pháp không tịch. Sau khi biện luận xong, tổ sư Đạt Ma bày tỏ sự thương tiếc, trao cho bần tăng một quyển sách. Tổ sư Đạt Ma nói ‘Không minh thiền’ rồi biến mất. Bần tăng tỉnh dậy, thiền phòng yên tĩnh, đèn dầu lập lòe, trong lúc bần tăng đang mơ màng thì phát hiện trên tay cầm một quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền. Giấc mơ này như thật như ảo khiến người ta bối rối, quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền này cũng làm người ta suy nghĩ mãi không thông.”
Xứ Tịch nói xong, lấy trong tay áo ra một quyển sách, cung kính đặt lên bàn gỗ lê.
Huyền Trang cầm quyển sách lên, lật xem.
Đó là một quyển sách đã ngả vàng, bìa sách không có chữ, bên trong cũng trống không.
Huyền Trang đưa quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền cho Bạch Cơ, nói: “A Di Đà Phật! Long thí chủ giải thích thế nào về không minh thiền này?”
Bạch Cơ cầm quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền, tay nàng run nhẹ, trong mắt lóe lên ánh sáng kỳ lạ.
“À, quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền này tuy không có chữ nào nhưng lại tràn đầy dục vọng và chấp niệm... Thiền sư Huyền Trang, ta chỉ là một thương nhân ở chợ Tây, kiến thức nông cạn, không thể giải thích được không minh thiền sâu xa này.”
Huyền Trang nhìn chăm chú vào quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền, suy nghĩ một lúc, dường như cũng không hiểu được.
Xứ Tịch cung kính nói: “A Di Đà Phật! Thiền sư Huyền Trang có thể từ từ tham cứu, nếu hiểu được ý nghĩa, xin khai thị cho bần tăng. Bần tăng xin cáo từ trước.”
Huyền Trang khẽ gật đầu.
Sau khi Xứ Tịch cáo từ, Huyền Trang cầm quyển sách Vô Tự Không Minh Thiền, rơi vào trạng thái tham cứu không minh thiền.
Bạch Cơ thấy vậy thì cũng cáo từ.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước ra khỏi tháp Đại Nhạn, bên ngoài ánh nắng rực rỡ, cỏ cây xanh tươi, tràn đầy sức sống.
Một vị tăng nhân dẫn đường đưa Bạch Cơ và Nguyên Diệu ra ngoài, Bạch Cơ nói lâu lâu mới đến đây, thời gian còn sớm, muốn đến Đại Hùng Bảo điện để dâng một nén nhang cho Phật Tổ. Tăng nhân dẫn đường bèn dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu đi qua khu tăng xá, đến Đại Hùng Bảo Điện.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu dâng hương xong, cũng dâng chút tiền dầu nhang, Bạch Cơ ngửi thấy mùi thức ăn từ nhà ăn chay Ngũ Quán Đường phía đông bay đến, lại nói bụng đói, muốn xin một bát cơm chay ăn.
Người xuất gia phổ độ chúng sinh, giúp đỡ người khác, tăng nhân dẫn đường đành đưa Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến Ngũ Quán Đường* ăn cơm chay.
* Ngũ Quán Đường: Nhà ăn chay, nơi cung cấp bữa ăn cho tăng nhân trong chùa.