Mối Tình Của Chàng Nhạc Sĩ
Chương 8
Trở về nhà tôi đã được chào đón như Heinrich đã tiên đoán, với điều công nhiên về sự thành công của tôi và nhiều điều không thích thú gì nhưng, về từng phần một, thì có những hậu quả hơi tức cười. Thật dễ dàng để giải quyết cai 'gánh nặng của những vấn đề thương mãi, tôi chỉ giản dị giao phó vở đại nhạc kịch của tôi vào đôi tay của một người đại diện. Nhưng các khách khứa, nhà báo, nhà xuất bản và những bức thư ngớ ngẩn, và nó tốn thì giờ để làm quen với những trách nhiệm nhỏ hơn cái việc bất thần nổi danh đó là để phục hồi từ sự vỡ mộng lúc ban sơ. Thiên hạ có một phương thức cá biệt ở việc đòi hỏi túm lấy cái tên tuổi nổi tiếng, không hề phân biệt chi giữa những thần đồng, nhà soạn nhạc, thi nhân, kẻ cướp và bọn sát nhân. Người thì muốn một bức chân dung, kẻ kia thì muốn có một thủ bút, người thứ ba lại xin xỏ tiền bạc, mỗi sinh viên trẻ trung thì đệ trình tác phẩm của y, yêu cầu cho biết ý kiến và hết sức tâng bốc, nhưng nếu ta không trả lời hoặc nói thực với y những gì ta nghĩ về tác phẩm ấy thì người ngưỡng mộ đó bất thần trở nên cay cú, không lịch sự và đầy thù hận. Các tạp chí cần chân dung của con người nổi tiếng đó, nguồn gốc và sự xuất hiện, các bạn học thì nhắc nhở hắn về sự hiện diện của họ, và các họ hàng thân thích xa lắc xa lơ thì công bố rằng họ đã từng nói vào những năm trước đây là người anh em họ hàng của họ sẽ trở nên nổi danh một ngày nào đó. Giữa những bức thư quấy nhiễu loại này, có một bức thư từ cô Schniebel đã làm tôi tức cười. Cũng có một bức từ một người nào đó mà tôi đã không nghĩ đến từ lâu: cô Liddy kiều diễm, nàng chẳng đề cập chi đến cuộc cưỡi xe trượt tuyết của chúng tôi, và viết trong giọng điệu một người bạn cũ trung thành, nàng đã kết hôn với một giáo sư âm nhạc tại thành phố quê hưởng nàng và có cho tôi địa chỉ như thế để tôi có thể chóng vánh gởi ngay các nhạc phẩm của tôi với lời đề tặng tâng bốc đến cho nàng. Tuy nhiên, nàng có bỏ trong bao thư một tấm hình , cho thấy cái hình dáng từng quen thuộc đó đã trở nên già nua hơn và thô kệch. Tôi đã hồi âm cho nàng trong những lời lẽ rất là niềm nở. Nhưng những sự việc nhỏ nhặt này liên quan đến những vấn đề nhỏ mọn chẳng để lại dấu vết gì quan trọng đàng sau. Cả đến những hoa quả tốt lành và tươi tắn của sự thành công của tôi, cũng như việc tri ngộ với người có học thức và nổi tiếng vốn có âm nhạc trong linh hồn họ và không chỉ nói về nó mà thôi, cũng chẳng thuộc về cái đời sống thực sự của tôi, mà về sau này, cũng như trong quá khứ, vẫn tách biệt và rất ít đổi thay kể từ lúc đó. Tất cả đều vẫn vậy với tôi để cho tôi kể với bạn sự vần xoay của những biến cố trong đời những người bạn thân thiết nhất của tôi. Ông lão Imthor không cô òn tiếp tân nhiều nữa như khi Gertrude có ở đó, nhưng cứ mỗi ba tuần lễ, giữa vô số những tranh ảnh tại nhà ông, ông có tổ chức một đêm hoà nhạc thính phòng với âm nhạc thính phòng chọn lọc, mà tôi đã tham dự một cách đều đặn. Đôi khi tôi đem theo Teiser đi với tôi, nhưng cụ Imthor bắt ép tôi đến và gặp riêng ông ở những cuộc viếng thăm này. Thế nên thỉnh thoảng tôi đến đó vào buổi tối, đó là thì giờ thuận tiện của ông, và giữ sự họp mặt với ông, trong căn phòng làm việc bày biện giản dị của ông, nơi đây có một bức chân dung của Gertrude treo trên vách. Ông lão và tôi, mặc dù bề ngoài tôn kính lẫn nhau, dần dà đã đi đến một sự hiểu biết tốt đẹp và cảm thấy cần nói chuyện với nhau, và do đấy không phải là hiếm hoi gì để chúng tôi nói đến những gì vốn sẵn có trong đầu óc chúng tôi nhất. Tôi phải nói với ông cụ về Munich và tôi không che giấu cái cảm tưởng tôi tiếp nhận được ở mối quan hệ giữa đôi vợ chồng đó. Ông cụ gật đầu một cách hiểu biết. - Mọi sự hãy còn trở nên tốt đẹp – ông nói, thở dài – Nhưng chúng ta không thể làm bất cứ điều gì. Tôi đang hướng về mùa hè, khi mà tôi sẽ có con bé của tôi ở với tôi trong hai tháng. Tôi chẳng mấy khi đến thăm nó ở Munich và cũng không muốn đến đó. Hơn nữa, nó cư xử một cách liều mạng như thế nên tôi không muốn quấy rầy nó làm cho nó yếu đuối đi. Các bức thư của Gertrude không mang đến điều chi mới mẻ. nhưng khi nàng về thăm thân phụ nàng khoảng lễ Phục sinh, và cũng đã đến ngôi nhà nhỏ của chúng tôi, thì nàng trông gầy đi và căng thẳng, và mặc dù nàng cố tự nhiên với chúng tôi và che giấu đi, chúng tôi cũng thường thấy một bỉêu lộ của nỗi vô vọng xa lạ trên gương mặt nàng, cái gương mặt đã trở nên nghiêm trang đứng đắn. Tôi đàn âm nhạc mới nhất của tôi cho nàng nghe, nhưng khi tôi yêu cầu nàng hát một bản nào đó cho chúng tôi nghe, thì nàng dịu dàng gật đầu và từ chối. - Khi khác vậy – nàng nói giọng lưỡng lự. Tất cả chúng tôi có thể thấy rằng nàng bất hạnh, và thân phụ nàng cũng đã thú nhận với tôi sau này là ông đã đề nghị nàng ở lại với ông vĩnh viễn, nhưng nàng đã từ chối. - Nàng yêu anh ta – tôi nói. Ông cụ rùng vai và nhìn đến tôi với vẻ ưu uất. - Tôi không biết, ai có thể phân tích được nỗi khốn khổ này? Nhưng nó nói nó ở lại với hắn chỉ vì hắn. Hắn đã bị bối rối và bất hạnh đến thế và cần nó hơn là hắn nghĩ thế. Hắn không nói bất cứ điều gì với nó, nhưng điều đó đã được viết trên mặt hắn. Rồi ông lão trầm giọng xuống và nói hoàn toàn nhỏ nhẹ với sự hổ thẹn: - Nó định nói là hắn chè chén say sưa. - Anh ta luôn luôn uống một ít – tôi nói, cố an ủi cụ - nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ta say cả. Anh ta kiểm soát mình được trong cách thức ấy. Anh ta là mẫu người mẫn cảm không dùng đến sự tự áp dụng kỷ luật, nhưng có lẽ gây ra cho mình khốn khổ hơn là cho kẻ khác. Không một ai trong chúng tôi biết hai người ưu tú đó đã khốn khổ một cách khủng khiếp trong bí mật như thế nào. Tôi nghĩ rằng họ không khi nào thôi yêu thương lẫn nhau, nhưng sâu tít trong bản chất của họ thì họ không thuộc về nhau, họ chỉ lôi cuốn đến gần nhau hơn qua dục vọng và trong những giờ chuếch choáng của sự khoan khoái mà thôi. Một sự trầm tĩnh chấp nhận đời sống và một sự hiểu biết ngấm ngầm cái bản chất riêng biệt của mình là những điều mà Muoth không bao giờ biết đến và Gertrude chỉ có thể ẩn nhẫn với sự hối tiếc những bùng nổ và chán nản của anh ta, những tánh khí nhanh chóng đổi thay của anh ta, cái khát vọng không ngớt cho sự tự quên mình và cái chuếch choáng của anh ta mà thôi, nhưng nàng không thể nào thay đổi hay sống với những điều đó. Thế nên họ yêu nhau và tuy thế hãy chưa bao giờ hoàn toàn gần gũi khắng khít với nhau, và trong khi anh ta thấy mình đã lừa đảo tất cả những hy vọng ở việc tìm ra sự thanh thản và hạnh phúc của anh ta qua nàng, thì Gertrude đã nhận ra, và đã khốn khổ ở sự hiểu biết này, rằng tất cả thiện chí và nỗ lực của nàng đều vô vọng, và nàng chẳng thể an ủi anh ta và cứu anh ta từ chính anh ta. Như thế cả hai bọn họ đã có cái giấc mơ bí mật và khát khao yêu quý nhất đã bị tan vỡ. Họ chỉ có thể ở lại bên nhau bằng những hy sinh và chứng tỏ sự chịu đựng nhau mà thôi, và đó là điều can đảm của họ để làm cái điều này. Tôi lại gặp Heinrich vào mùa hè khi anh ta đem Gertrude đến thân phụ nàng. Anh ta dịu dàng và chìu chuộng nàng và tôi chưa bao giờ thấy anh ta làm thế trước đây. Tôi đã nhận thức rằng, anh ta đã sợ bị mất nàng nhiều như thế nào, và tôi cũng cảm thấy rằng anh ta sẽ chẳng bao giờ có thể chịu nổi một sự mất mát như vậy. Nhưng nàng thì mệt mỏi và chẳng ao ước gì ngoại trừ sự nghỉ ngơi và yên lặng để trấn tĩnh mình và phục hồi sức mạnh và sự yên ổn của nàng. Chúng tôi ở lại một buổi tối mát mẻ với nhau trong khu vườn của chúng tôi. Gertrude ngồi giữa Brigitte và mẹ tôi, mà tay họ nàng nắm lấy. Heinrich một cách yên lặng đi đi lại lại giữa các bụi hồng, và tôi chơi một bản cầm tấu khúc vĩ cầm với Teiser trên hàng hiên. Cái cách thức mà Gertrude nghỉ ngơi ở đó và thưởng thức những giờ êm ả đó, Brigittte đã bám sát một cách đầy cảm tình với người đàn bà nhan sắc buồn bã đó như thế nào, và Muoth đi lại một cách yên lặng trên những cái bóng với đầu anh ta cúi xuống và lắng nghe tất cả chúng tôi ra sao, là những điều đã khắc ghi trong đầu óc tôi một cách vô phương xoá nhoà. Sau đó Heinrich đã nói hơi có phần hoạt kê nhưng với đôi mắt buồn bã: - Hãy nhìn ba người đàn bà ngồi với nhau kìa, người duy nhất giữa bọn họ trông hạnh phúc là thân mẫu anh. Chúng ta cũng sẽ cố để trở nên già giống như bà. Sau cuộc gặp gỡ này tất cả chúng tôi chia tay ai theo lối nấy. Muoth một mình du hành đến Bayreuth, Gertrude với thân phụ nàng đi vào các rặng núi, anh em Teiser thì đi đến Steinmark, và bà mẹ tôi và tôi lại tới bờ biển miền bắc Đức. Tại đấy tôi thường bách bộ dọc theo bờ biển, lắng nghe biển cả, và nghĩ rằng như thể tôi đã từng đi trong thời tuổi trẻ của tôi, với sự sửng sốt và kinh hãi, về nỗi buồn và sự rối loạn vô cảm giác của đời sống, rằng người ta có thể yêu trong vô vọng, rằng thiên hạ họ có ý định tốt đẹp với nhau lại sẽ thi hành định mệnh của họ một cách riêng biệt, mỗi người theo đuổi con đường không thể giải thích được giúp đỡ và lôi kéo đến gần nhau và tuy thế vẫn không thể làm được như vậy, cũng như trong những giấc mộng quấy rầy vô nghĩa. Tôi thường nghĩ đến những nhận xét của Muoth về tuổi trẻ và tuổi già và tôi tò mò không biết đời sống sẽ có vẻ mãi mãi dung dị và rõ ràng với tôi hay không. Mẹ tôi mỉm cười khi tôi đề cập đến điều này trong cuộc nói chuyện và trông thật là thanh thản. Bà làm tôi cảm thấy hổ thẹn bởi việc lưu ý của tôi đến ông bạn Teiser của tôi, người tuy vẫn chưa già nua nhưng đủ tuổi tác để chia sẻ những kinh nghiệm của ông, và tuiy vậy vẫn tiếp tục sống trong một cách thế vô tư vô lự hệt như một đứa bé, với một giai điệu Mozart trên đôi môi ông ta. Tôi thấy một cách rõ ràng là chẳng có gì với tuổi tác cả, và có lẽ nỗi khốn khổ và ngu xuẩn của chúng ta chỉ do sự bệnh hoạn về những điều mà ông Lohe đã nói với tôi mà thôi. Hay là con người khôn ngoan đó là một đứa bé khác hệt như Teiser? Tuy nhiên có thể rằng, nghĩ ngợi và cân nhắc đắn đo không đổi thay bất cứ chuyện gì cả. Khi âm nhạc khuấy động trong hữu thể tôi, thì tôi hiểu biết tất cả mọi sự mà bấy giờ có sự trợ giúp của chữ nghĩa. Lúc bấy giờ tôi ý thức đến một hoà âm thuần khiết trong yếu tính của đời sống và cảm thấy rằng phải có một ý nghĩa và một lề luật công chính đàng sau tất cả mọi sự xảy ra đó. Dẫu rằng đây là một ảo tưởng, nó cũng đã giúp tôi để sống được và là một an ủi vỗ về cho tôi. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu Gertrude đã không chia tay với chồng nàng vào mùa hè. Nàng đã bắt đầu bình phục, và khi tôi gặp lại nàng vào mùa thu, sau cuộc hành trình của tôi, nàng trông đã khoẻ mạnh hơn và có khả năng quán xuyến trở lại. Song những hy vọng chúng tôi xây dựng trên sự cải thiện này thì đã hướng về sự thất vọng. Gertrude đã cảm thấy tốt hơn trong khi ở lại với thân phụ nàng trong một vài tháng. Nàng đã có thể thoả mãn ở nhu cầu nghỉ ngơi của nàng, và với một cảm giác buông xả nhẹ nhõm có thể duy trì trong cái trạng thái yên lặng này mà không có sự tranh đấu hàng ngày, cũng như một người mệt mỏi dễ khuất phục trước giấc ngủ khi được ở lại một mình. Tuy nhiên, nó cho thấy rằng nàng đã mệt nhoài hơn là chúng tôi tưởng và hơn là nàng đã biết chính mình, vì rằng hiện giờ Muoth phải đến với nàng ngay, nàng lại trở nên thối chí, không ngủ được, và đã khẩn khoản với thân phụ nàng để cho nàng ở lại với cụ một ít lâu nữa. Tự nhiên cụ Imthor có phần hốt hoảng vì việc này, khi ông nghĩ rằng nàng sẽ vui mừng để trở lại với Muoth với sức mạnh và lòng quyết tâm một lần nữa, song cụ không bàn luận chi với nàng, và một cách thận trọng còn đề nghị một sự chia cách lâu hơn nữa trong hiện tại, với một quan điểm là có một cuộc ly dị về sau đó. Nàng đã chống lại điều này với sự xúc động lớn lao. - nhưng con yêu anh ấy mà – nàng kêu lên một cách nhiệt liệt – Và con sẽ không bao giờ phản bội anh ấy. Chỉ có điều là thật khó khăn để sống với anh ấy mà thôi! Con chỉ muốn nghỉ ngơi một ít lâu, có lẽ vài tháng nữa, cho đến khi nào con cảm thấy mạnh khoẻ hơn. Ông Imthor đã cố an ủi nàng. Chính ông cũng không chống đối chi việc có con cái ông ở với ông một ít lâu nữa. Ông đã viết cho Muoth, nói với anh ta là Gertrude vẫn chưa khoẻ và mong muốn được ở lại với ông một thời gian. Đáng tiếc thay, Muoth đã không tiếp nhận những tin tức này trong cái tốt đẹp của nó. Trong thời gian họ chia cách đó, nỗi khát khoa mong mỏi vợ anh ta đã trở nên rất lớn lao. Anh ta đã trông mong lại được gặp nàng và có những giải pháp hoàn toàn tốt đẹp để chiếm lại trọn vẹn tình yêu của nàng. Bức thư của Imthor đến như một thất vọng to lớn cho anh ta. Lập tức anh ta viết một bức thư giận dữ đầy những ngờ vực về âm nhạc của anh ta. Anh ta cảm thấy rằng người sau đó đã gây ảnh hưởng cho nàng chống lại anh ta cũng như ông đã ao ước một cuộc hôn nhân tan vỡ. Anh ta đòi hỏi một cuộc gặp gỡ tức thì với Gertrude, người mà anh ta hy vọng để chiếm hữu trở lại. Ông cụ Imthor đến với tôi với bức thư đó và trong một lúc lâu chúng tôi đã cân nhắc sẽ phải làm gì. Cả hai chúng tôi đều nghĩ rằng sẽ tốt hơn là cuộc gặp gỡ giữa đôi vợ chồng nên tránh đi vào giây phút đó, khi hiển nhiên là Gertrude không thể nào chịu nổi bất cứ sự bùng nổ cảm xúc nào. Imthor rất quan tâm và yêu cầu tôi liệu tôi sẽ đi gặp Muoth và thuyết phục anh ta để cho Gertrude yên tĩnh một ít lâu được không. Hiện tại tôi biết rằng tôi sẽ làm được chuyện đó. Lúc đó tôi đã có một vài nghi ngại và nghĩ rằng sẽ dại dột khi cho bạn tôi biết rằng tôi là người tâm giao với âm nhạc anh ta và đã từng quen biết với những điều trong đời sống của anh ta mà chính anh ta cũng không muốn tiết lộ với tôi. Cho nên tôi đã từ chối, và tất cả điều tiết lộ ra đó đã được ông Imthor viết một bức thư khác, dì nhiên nó chẳng giúp chi cho vấn đề đó cả. Sau cùng, Muoth đã đến mà không cho ai hay trước và đã làm cho tất cả chúng tôi kinh hoàng với sự quyết liệt khó lòng đè nén của tình yêu và sự ngờ vực của anh ta. Gertrude, người không biết gì về các bức thư ngắn ngủi trao đổi đó, đã hoàn toàn sửng sốt và bối rối bởi sự xuất hiện đường đột của anh ta và những xúc cảm gần như quyết liệt đó của anh ta. Có một xen đau đớn, mà các chi tiết của nó tôi chẳng biết gì. Tôi chỉ biết rằng Muoth đã thúc giục Gertrude trở lại với anh ta đến Munich. Nàng công bố rằng nàng sẵn sàng làm như anh ta muốn, nếu không có sự luân phiên, nhưng đã yêu cầu được phép ở lại với thân phụ nàng một ít lâu nữa, khi mà nàng còn mỏi mệt và hãy còn cần đến sự nghỉ ngơi. Bấy giờ anh ta đã kết án nàng là muốn bỏ rơi anh ta và ám chỉ rằng nàng đã bị xúi giục bởi thân phụ nàng để làm như vậy. Anh ta còn trở nên ngờ vực hơn khi nàng dịu dàng cố gắng giải thích, và trong một cơn giận dữ và cay đắng anh ta đã rồ dại thế kia khi ra lệnh cho nàng một cách cộc cằn hãy trở lại với anh ta. Bấy giờ sự kiêu hãnh của nàng đã khẳng định trong chính nó. Nàng vẫn lặng yên song từ chối nghe anh ta thêm nữa và tuyên bố rằng nay nàng sẽ ở lại với thân phụ nàng trong bất cứ biến cố nào. Buổi sáng hôm sau cái xen này, Muoth đã cố gắng hoà giải với nàng và đã hổ thẹn và ăn năn, bây giờ thì anh ta đã thừa nhận tất cả những ước muốn của nàng. Đoạn anh ta du hành trở lại Munich mà không đến gặp tôi. Tôi đã sững sờ khi nghe về chuyện đó và thấy sự rắc rối đó nằm trước mặt mà tôi đã e sợ từ lúc ban đầu. Sáu cái xen khó chịu và rồ dại đó, tôi nghĩ, nay có thể là một thời gian dài trước khi nàng sẽ cảm thấy bình tĩnh và mạnh mẽ đủ để trở lại với anh ta, và giữa lúc ấy có một sự hiểm nguy ở việc trở nên liều lĩnh bạt mạng của anh ta, và bất kể những khát khao mong mỏi của anh ta, anh ta có thể còn trở nên mất thiện cảm với nàng nữa. Anh ta sẽ không thể chịu đựng nổi việc sống một mình trong căn nhà mà anh đã từng hạnh phúc một thời gian. Anh ta sẽ thúc thủ trước tuyệt vọng, rượu chè và có lẽ đi tới với những người đàn bà khác mà họ vẫn còn săn đuổi anh ta. Trong lúc ấy, tất cả đều im lặng. Anh ta đã viết cho Gertrude và lại yêu cầu sự tha thứ của nàng. Nàng đã hồi âm thư anh ta trong một cung cách giao cảm và thân mật đã khuyên anh ta kiên nhẫn. Vào lúc này tôi ít gặp nàng. Thỉnh thoảng tôi cố thuyết phục nàng hát, nhưng nàng luôn luôn lắc đầu. Tuy thế nhiều lần tôi nhận thấy nàng ở bên chiếc dương cầm. Điều có vẻ lạ lùng cho tôi để thấy con người đàn bà nhan sắc kiêu hãnh này, một người luôn luôn cả quyết, vui vẻ và thanh thản đến thế kia, hiện thời đã nhút nhát và lay đổ đến tận hữu thể của nàng. Đôi khi nàng có đến thăm mẹ tôi, hỏi han việc chúng tôi sinh sống ra sao, ngồi bên cạnh bà lão trên cái trường kỷ một lúc, và cố chuyện trò mưa nắng với bà. Điều làm tôi đau buồn để nghe nàng nói và thấy nàng nhận ra sự khó khăn để cười ở cuộc chuyện đó như thế nào. Những dáng vẻ bề ngoài đó đã tiếp tục như thể không phải tôi mà cũng chẳng phải bất kỳ ai khác biết được nỗi sầu muộn của nàng, hoặc lưu ý nó như một trạng thái bấn loạn và yếu đuối thể xác. Thế nên tôi khó có thể nhìn vào mắt nàng, trong đó nỗi buồn khổ không thú nhận của nàng, mà về nó tôi không giả thiết là biết được, đã được viết ra rõ ràng đến như thế. Chúng tôi đã chuyện trò, sinh hoạt gặp gỡ như thể mọi sự cũng tương tự như nó luôn luôn là vậy, và tuy thế chúng tôi cũng đã cảm thấy không được tự nhiên trước sự hiện diện của nhau và lẩn tránh nhau. Ở giữa những cảm giác buồn bã bối rối này, thỉnh thoảng tôi bị túm lấy bởi cái ý niệm, khiến tôi bất thần kích thích, rằng tâm hồn nàng không còn thuộc về chồng nàng nữa và rằng được tự do, và hiện giờ nó tuỳ thuộc vào việc tôi không đánh mất nàng nữa, nhưng để chiếm đoạt nàng cho mình và che chở nàng bên tôi từ tất cả bão tố và phiền muộn. Bấy giờ tôi giam mình trong phòng chơi nhạc đam mê và mong mỏi của vở đại nhạc kịch của tôi, mà bất thần tôi lại yêu thích và hiểu biết nó, đã nằm thức ở những đêm đầy nhiệt vọng và lại khốn khổ tất cả ở những điều hành hạ buồn cười của tuổi trẻ và những ước vọng bất thành xa xưa, không kém mãnh liệt hơn trong quá khứ khi lần đầu tiên tôi đã khao khát mong mỏi nàng và trao tặng nàng cái nụ hôn duy nhất không sao quên được đó. Tôi cảm thấy nó bừng bừng trên đôi môi tôi một lần nữa và trong một vài giờ nó đã tiêu huỷ sự thanh tĩnh và những năm tháng chối bỏ của tôi.
Chỉ trong sự hiện diện của Gertrude mà nhiệt tình của tôi mới dịu bớt. Dẫu rằng tôi rồ dại và đủ đê tiện mới theo đuổi những khát vọng của tôi và, chẳng kể gì đến chồng nàng, một người là bạn tôi, để cố chiếm đoạt con tim nàng, tôi ắt đã hổ thẹn để chứng tỏ bất cứ điều gì ngoại trừ lòng giao cảm và lòng tôn kính khi đối diện bởi người đàn bà buồn rầu, dịu dàng này, người đã hoàn toàn phong kín trong nỗi sầu muộn của nàng đến thế kia. Nàng còn khốn khổ và có vẻ mất mát hy vọng bao nhiêu thì nàng càng trở nên kiêu hãnh hơn và không thể đạt đến bấy nhiêu. Nàng đã giữ cho cái đầu kiều mị đen huyền của nàng thẳng đứng cũng như kiêu hãnh như tự bao giờ và không cho phép bất kỳ ai trong chúng tôi làm một cố gắng nhỏ nhất để tiến đến với nàng, và giúp đỡ nàng. Những tuần lễ dằng dặc của sự yên lặng đe doạ này có lẽ là thời gian khó khăn nhất trong đời tôi. Ở đây Gertrude gần gũi với tôi tuy không thể nào tiếp xúc được, với không một lối nào để tôi tiến đến với nàng; Brigitte người mà tôi biết đã yêu tôi và người mà với nàng đã lẩn tránh một thời gian, một mối tương giao khả dĩ đã dung nạp được lần hồi được thiết lập. Và giữa tất cả chúng tôi có bà mẹ già của tôi, người đã nhìn thấy sự khốn khổ của chúng tôi, đã đoán ra tất cả mọi sự song không cho phép mình nói lên bất cứ điều gì, cũng như chính tôi đã duy trì một sự im lặng tối tăm và cảm thấy không thể nào nói với bà bất cứ điều gì về cái trạng thái của tôi. Nhưng tệ hại hơn cả là sự khủng khiếp đã bức bách phải nhìn vào với niềm xác tín vô vọng rằng những bằng hữu tuyệt nhất của tôi đang dẫn đầu đến một tai hoạ, mà không phải chính tôi có thể tiết lộ là tôi đã biết lý do vì sao. Thân phụ Gertrude hình như khốn khổ hơn hết. Tôi từng biết ông trong nhiều năm như là một người sáng suốt, nghị lực, tự tin nhưng nay thì ông đã già nua và biến đổi, ông nói năng nhỏ nhẹ và ít bình tĩnh hơn, ông không còn đùa cợt nữa, và trông âu lo, khốn đốn. Một hôm tôi đến thăm ông vào tháng mười một, chính ra là để được nghe bất kỳ tin tức nào và để làm cho tôi vui vẻ hơn lên là để an ủi ông cụ. Ông tiếp tôi tại phòng làm việc của ông, tặng tôi một trong những điếu xì gà đắt giá của ông và bắt đầu nói với tôi trong một thái độ lịch sự, nhã nhặn. Ông cụ đã làm điều này với một cố gắng và chẳng bao lâu đã bỏ mặc. Cụ nhìn đến tôi với một cái mỉm cười phiền muộn và nói: - Anh muốn biết sự việc ra sao, phải không? Rất là thảm hại, ông bạn quý của tôi. Con bé đã khốn khổ nhiều hơn là chúng ta biết, bằng không hẳn nó đã đối phó với tình cảnh khá hơn. Tôi tán đồng chuyện ly dị nhưng nó lại không chịu nghe. Nó yêu hắn, ít ra nó nói như vậy và tuy vậy lại sợ hắn. Thật là tệ hại. Con nhỏ thì ốm yếu, nó nhắm mắt lại, sẽ không chịu nghe điều phải trái gì nữa cả, và cho rằng mọi sự sẽ tốt đẹp nếu thiên hạ sẽ chỉ chờ đợi và để cho nó được yên tĩnh. Cố nhiên, đấy chỉ là nghị lực, nhưng sự ốm yếu của nó có vẻ đã bắt nguồn sâu xa hơn. Hãy nghĩ xem, thỉnh thoảng nó còn sợ rằng chồng nó có thể ngược đãi nó nếu nó trở lại với hắn, và tuy vậy nó vẫn yêu hắn. Ông cụ có vẻ không hiểu biết nàng và nhìn cái chuỗi những biến cố đó với một cảm giác vô vọng. Đối với tôi, thì nỗi khốn khổ của nàng hoàn toàn có thể quan niệm được là do kết quả của sự tranh chấp giữa tình yêu và lòng kiêu hãnh. Nàng không sợ anh ta sẽ đánh đập nhưng sợ rằng nàng sẽ không còn tôn kính anh ta nữa, và trong khi trì hoãn một cách áy náy lo ngại, nàng đã hy vọng phục hồi lại sức mạnh của nàng. Nàng đã có thể chế ngự và làm thăng bằng anh ta nhưng bởi làm việc này nên nàng đã làm cho mình mệt nhoài đến nỗi nàng không còn tự tin ở những sức mạnh của nàng nữa, đó là sự đau ốm của nàng. Nàng khao khát mong mỏi anh ta và tuy thế lại sợ rằng nàng sẽ hoàn toàn đánh mất anh ta nếu một cố gắng mới mẻ ở việc giải hoà chứng tỏ là không thành công. Hiện tại tôi đã thấy một cách rõ ràng là vô ích và hư ảo biết bao ở những xét đoán liều lĩnh của tôi về việc chiếm được tình yêu của nàng. Gertrude đã yêu chồng nàng và sẽ không khi nào quan tâm đến bất kỳ ai nữa cả. Ông cụ Imthor đã tránh nói với tôi về Muoth, khi ông biết tôi là bạn của anh ta, nhưng ông đã thù ghét anh ta và không thể hiểu làm sao mà anh ta có thể hấp dẫn được Gertrude. Ông cho anh ta như một thứ phù thuỷ nham hiểm có thể chiếm đoạt người thơ ngây trinh trắng và chẳng khi nào chịu buông tha họ cả. Đam mê luôn là một điều huyền nhiệm không thể giải thích được, và tiếc thay không có gì ngờ rằng đời sống không thương xót dung tha cho những đứa bé con trinh thuần nhất của nó và thường khi chỉ có người xứng đáng nhất người mà không thể nào không yêu thương những kẻ mà họ đã huỷ diệt chính họ. Đang trong tâm trạng phiền muộn này, thì tôi nhận được một bức thư ngắn từ Munich, đã làm vơi đi sự căng thẳng đó. Anh ta viết: Kuhn thân mến, Vở đại nhạc kịch của anh hiện tại sẽ được trình diễn ở khắp mọi nơi, có lẽ rất vui thú nếu anh sẽ lại đến đây, nói rõ ra là tuần tới, khi tôi hát trong vai trò trong đại nhạc kịch của anh tới hai lần. Anh biết rằng nhà tôi bị đau và tôi ở đây có một mình. Như thế anh có thể ở lại với tôi mà không phải khách sáo gì. Thân ái, Muoth Anh ta ít viết thư lắm, và chưa bao giờ có bất kỳ thư từ nào mà không cần thiết, cho nên tôi đã quyết định đi ngay lập tức. Anh ta hẳn đã cần đến tôi. Vì trong một phút giây tôi nghĩ nên nói cho Gertrude biết. Có lẽ đây là cơ hội để phá vỡ cái chướng ngại vật đó. Có lẽ nàng sẽ trao cho tôi một bức thư đem đến cho anh ta, hoặc chuyển giao một tin tức ân cần, yêu cầu anh ta tìm đến hoặc ngay cả đến với tôi. Điều đó chỉ là một ý tưởng, nhưng tôi không thực hành nó. Tôi chỉ viếng thăm thân phụ nàng trước khi lên đường. Lúc đó vào cuối thu, thời tiết thật tệ hại, ẩm ướt và bão tố. Từ Munich có lúc ta có thể thấy hàng giờ những rặng núi kế cận, đã bị bao phủ với tuyết tươi rói. Thành phố đìu hiu và ướt át với mưa gió. Lập tức tôi đi đến nhà Muoth. Mọi đồ vật ở đấy đều tương tự như nó đã có một năm trước đó, cũng người giúp việc ấy cũng những căn phòng như thế và sự sắp xếp đồ đạc tương tự, nhưng nơi đó trông không có người ở và trống trải quạnh hiu, nó cũng thiếu những bông hoa Gertrude luôn luôn trang trí. Muoth không có ở nhà. Người giúp việc dẫn tôi vào căn phòng và giúp tôi lấy đồ đạc ra. Tôi thay y phục, và khi mà chủ nhà vẫn chưa về, tôi đi vào phòng nhạc, nơi tôi có thể nghe cây cối rì rào đàng sau cánh cửa sổ và có nhiều thì giờ để nghỉ tới quá khứ. Tôi càng ngồi đó nhìn lên các bức hình và lật lật các trang sách bao nhiêu thì tôi càng trở nên buồn bã bấy nhiêu, như thể là căn nhà này nó vượt quá sự giúp đỡ. Tôi ngồi xuống một cách nhẫn nhục cạnh chiếc dương cầm để tống khứ đi những ý nghĩ vô tích sự này, và tôi đã đánh lên dạo khúc lễ cưới mà tôi đã soạn, như thể bằng cách làm như vậy tôi có thể mang trở lui niềm hạnh phúc đầm ấm của quá khứ. Sau cùng tôi nghe có bước chân thoăn thoắt, nặng nề gần bên và Heinrich Muoth bước vào. Anh ta chìa tay ra và nhìn tôi một cách mệt mỏi. - Xin tha thứ việc tôi về trễ - anh ta nói – Tôi mắc bận tại hí viện. Anh biết là tôi sẽ hát vào tối nay. Bây giờ chúng ta sẽ đi ăn chứ? Tôi theo anh ta ra khỏi căn phòng. Tôi nhận thấy anh ta đã thay đổi, anh ta lơ đãng và hờ hững. Anh ta chỉ nói đến hí viện và có vẻ như miễn cưỡng để bàn bạc bất cứ điều gì khác. Chỉ sau bữa ăn, khi chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế mây màu vàng, anh mới nói một cách bất ngờ: - Anh đến rất là thuận tiện. Tối nay tôi sẽ làm một cố gắng đặc biệt. - Cảm ơn – tôi nói – Trông anh không được khoẻ. - Tôi ư? Vâng – chúng ta sẽ vui vẻ ngay. Tôi là một người goá vợ mà. Anh biết điều đó chứ phải không? - Vâng. Anh nhìn đi chỗ khác. - Anh có tin tức gì về Gertrude không? - Chẳng có gì đặc biệt. Chị ấy vẫn còn ở trong tình trạng căng thẳng và ngủ không được nhiều. - Ồ phải, thôi chúng ta đừng nói đến chuyện đó. Nàng ở trong đôi tay tốt lành mà. Anh ta đứng dậy và đi lại trong phòng. Tôi cảm thấy rằng anh ta vẫn còn muốn nói một điều gì đó. Anh ta nhìn đến tôi một cách không chớp mắt và, tôi nghĩ, đã có sự ngờ vực. Rồi anh ta cười lên và giữ lại không nói ra. - Lottie à? - Phải, Lottie, người một lần có đến thăm anh và kể cho anh nghe một câu chuyện về tôi đấy. Nàng đã kết hôn với một người nào đó ở đây, và cho thấy rằng nàng vẫn còn chú ý đến tôi. Nàng đã tìm đến thăm tôi tại đây. Anh ta lại nhìn tôi một cách e thẹn và cười lên khi anh ta thấy rằng tôi đã xúc động. - Thế anh có tiếp cô ấy không? – tôi hỏi với một do dự nào đó. - Ồ, anh nghĩ tôi có khả năng về điều đó ư? Không ông bạn thân quý, tôi đã tống khứ cô ta đi rồi. Nhưng hãy tha thứ tôi, tôi kể chuyện vô nghĩa gì đâu không. Tôi mệt kinh khủng đến thế, và tôi phải hát vào tối nay. Nếu anh không quan tâm thì tôi sẽ đi nằm một giờ đồng hồ và cố để ngủ vậy. - Nhất định rồi, Heinrich, nghỉ ngơi, tốt nhất. Tôi sẽ đi ra phố một chút. Anh sẽ kêu cho tôi một chiếc tắc xi được chứ? Tôi không thể nào ngồi trong căn nhà này trong sự im lặng một lần nữa và nghe gió thổi trên các cành cây. Tôi đi ra phố không có mục đích nào cả, và lang thang vào viện bảo tàng nghệ thuật cũ kĩ. Tôi xem các tranh ảnh hằng nửa giờ trong cái ánh sáng tệ hại. Rồi tới giờ nó đóng cửa và tôi có thể nghĩ không gì tốt hơn là đọc báo tại một quán cà phê và nhìn qua những khung cửa sổ lớn xuống con đường ẩm ướt. Tôi đã quyết định là tôi sẽ phá vỡ cái hàng rào lạnh nhạt lạnh lùng này bằng bất cứ giá nào và nói một cách công khai với Heinrich. Nhưng khi tôi trở lại, tôi nhận thấy anh ta mỉm cười và ở trong trạng thái vui vẻ. - Tôi chỉ cần một giấc ngủ thôi – anh ta nói một cách tươi tỉnh – Hiện giờ tôi cảm thấy hoàn toàn phục hồi. Anh phải chơi một cái gì cho tôi nghe đi! Dạo khúc đi, nếu anh sẽ tốt như thế. Đã hài lòn và ngạc nhiên thấy một sự thay đổi bất thần như thế ở anh ta, tôi đã làm như anh mong muốn. Khi tôi đàn xong, anh ta bắt đầu nói như anh vẫn hay thế, một cách châm biếm và hơi có phần hoài nghi. Anh ta để cho trí tưởng tượng của anh ta mặc sức tung hoành và lại trọn vẹn chiếm ngự tâm hồn tôi. Tôi nghĩ đến những ngày ban sơ của tình bạn chúng tôi, và khi chúng tôi rời khỏi nhà vào buổi tối, tôi nhìn quanh quất một cách vô tình và nói: - Bây giờ anh không nuôi chó nữa à? - Không, Gertrude không thích chó. Chúng tôi đi đến híviện trong im lặng. Tôi chào mừng ông nhạc trưởng và đã được hướng dẫn đến chỗ ngồi. Tôi lại nghe âm nhạc từng quen biết, nhưng mọi sự đã khác hẳn từ lần cuối cùng. Tôi ngồi một mình trong ngăn nhỏ của tôi, Gertrude thì vắng mặt, và người đàn ông cử động và hát phía dưới đó cũng đã đổi thay. Anh ta hát với sự cuồng nhiệt và say sưa. Công chúng có vẻ ưa thích anh ta trong vai trò này và đã theo dõi với sự sốt sắng từ lúc khởi đầu. Nhưng đối với tôi thì sự cuồng nhiệt đó có vẻ quá đà và giọng hát của anh ta cũng quá to, gần như là bị bắt buộc. Vào lúc tạm nghỉ đầu tiên tôi đi xuống gặp anh. Anh ta trở lại phòng để uống sâm banh, và khi trao đổi một vài lời với anh ta tôi thấy rằng cặp mắt anh ta láo liên ,giống hệt một người say rượu. Sau đó trong khi Muoth thay y phục, tôi đi đến gặp ông nhạc trưởng. - Xin nói cho tôi biết – tôi yêu cầu – có phải Muoth ốm chăng? Tôi thấy rằng hình như anh ta để mình tiếp tục với sâm banh. Ông biết rằng anh ta là bạn tôi phải không? Ông ta nhìn đến tôi trong tuyệt vọng. - Tôi không biết anh ấy có ốm không nữa, nhưng điều hoàn toàn rõ ràng là anh ấy đã tự huỷ hoại mình. Một đôi khi anh ấy lên sân khấu gần như say mèm, và nếu có bao giờ anh ấy thiếu rượu, thì anh ấy hành động và hát thật tệ hại. Anh ấy luôn luôn có thói quen có một ly sâm banh trước khi xuất hiện, nhưng hiện tại thì anh ấy không bao giờ có ít hơn cả chai. Nếu anh muốn đưa ra một lời khuyên can với anh ấy – nhưng anh có thể ít làm được chuyện đó lắm. Rõ ràng là Muoth đang huỷ hoại mình. Muoth tiến đến tôi và chúng tôi đi đến chiếc quán gần nhất để dùng cơm. Anh ta lại uể oải bơ phờ và trầm mặc, nhưng anh ta đã có vào bữa cơm trưa, uống một số lớn rượu vang nặng, vì nếu không thì anh ta không thể ngủ được, và trông như thể là anh muốn để quên với bất cứ giá nào những điều khác nữa trên đời hơn là sự mệt mỏi và muốn ngủ của anh ta. Trên đường trở về trên chiếc tắc xi anh đã tươi tỉnh tôi một giây lát, cười và nói: - Bạn tôi, một khi tôi biến mất, anh có thể ngâm giấm vở đại nhạc kịch của anh. Không có ai khác ngoại trừ tôi mới có thể hát cái phần đó. Sáng hôm sau anh dậy trễ và vẫn còn mệt mỏi và uể oải, với cặp mắt nhớn nhác láo liên và một gương mặt tái mét. Sau khi anh ta đã dùng điểm tâm tôi dắt anh qua bên cạnh và nói với anh ta: - Anh đang tự giết mình – tôi nói, có cả sự áy náy lo ngại và trách cứ - Anh làm hồi phục mình với sâm banh và tự nhiên là sau đó anh phải trả tiền cho việc đó. Tôi có thể tưởng tượng tại sao anh làm thế, và tôi sẽ không nói gì nếu anh không có vợ. Anh đã nợ chị ấy sự tôn kính và lòng can đảm, một cách cả bên trong lẫn bên ngoài. - Thực ư? – anh ta mỉm cười yếu đuối, rõ ràng là giễu cợt bởi sự trách móc của tôi – Và nàng nợ tôi gì đây? Nàng đã ở lại với thân phụ nàng và để tôi một mình cả đấy. Tại sao tôi sẽ trấn tĩnh lại khi nàng không làm thế? Thiên hạ đã biết rằng chẳng có gì giữa chúng tôi nữa cả lâu rồi và anh cũng biết chuyện đó mà, nhưng nó hoàn toàn cũng thế khi tôi phải hát xướng và mua vui cho thiên hạ. Tôi không thể nào làm điều đó với một cảm giác trống rỗng và chán ghét mà tôi đã có về mọi sự, đặc biệt là về nghệ thuật. - Tuy vậy, anh phải bắt đầu một cuộc đời mới chứ, Muoth! Dường như rượu chè không làm cho anh hạnh phúc mà! Anh tuyệt đối tồi tệ! Nếu việc hát xướng có quá nhiều cho anh trong giây lát, thì yêu cầu được vắng mặt, anh sẽ đạt được điều đó ngay lập tức mà. Anh không tuỳ thuộc vào tiền bạc mà anh kiếm được bởi việc hát xướng. Hãy đi về miền núi hoặc biển, hoặc bất kỳ nơi nào anh thích, để được mạnh khoẻ trở lại. Và hãy bỏ quách cái chuyện rượu chè ngu xuẩn đó đi! Đấy không chỉ là ngu xuẩn mà thôi, đấy còn là hèn nhát nữa. Anh đã hoàn toàn biết rõ chuyện đó mà. Anh mỉm cười ở nhận xét đó. - Ồ phải – anh ta nói một cách trầm tĩnh – Thỉnh thoảng anh có đi nhảy một điệu luân vũ! Điều đó anh cũng sẽ làm tốt đẹp, tin tôi đi! Đừng có luôn luôn nghĩ đến cái chân ngu xuẩn của anh. Đó chỉ là tưởng tượng thôi mà! - Im mồm! – tôi la lên một cách giận dữ - Anh hoàn toàn biết rõ là chuyện đó khác hẳn. Tôi sẽ rất thích khiêu vũ nếu tôi có thể, nhưng tôi không thể khiêu vũ được. Nhưng anh thì hoàn toàn có thể cố gắng sửa đổi tính nết của anh và cư xử hợp lý hơn. Anh phải một cách dứt khoát từ bỏ rượu chè. - Dứt khoát à? Anh Kuhn thân mến, anh làm tôi buồn cười. Chuyện tôi đổi thay và từ bỏ rượu chè đó nó cũng khó khăn như anh khiêu vũ vậy. Tôi phải bám vào những điều mà nó hãy còn nâng cao tinh thần tôi. Anh hiểu chứ? Những người rượu chè đã được cải hoá khi họ tìm thấy một cái gì trong Cứu thế quân hoặc nơi nào khác nữa đem đến cho họ nhiều thoả mãn và nhiều chịu đựng hơn. Đã có lần một cái gì giống như thế có với tôi, nói rõ ra là đàn bà, nhưng có thể tôi chẳng còn chú ý gì đến bất kỳ người đàn bà nào khác kể từ khi nàng thuộc về tôi và nay đã bỏ rơi tôi, thế đấy. - Chị ta đã bỏ rơi anh à? Chị ta sẽ trở lại. Chị ta chỉ bị ốm thôi. - Đó là cái gì anh nghĩ và đó là cái gì chính nàng cũng nghĩ thế, tôi biết, nhưng nàng sẽ không trở lại đâu. Khi một con tàu sắp sửa đắm chìm, thì lũ chuột đã bị bỏ mặc từ trước rồi. Dĩ nhiên, chúng không biết rằng co ntàu đang chìm xuống dưới, chúng chỉ cảm thấy xúc chạm bởi một cảm giác nhẹ của sự nôn mửa và bỏ chạy, không nghi ngờ chi cái ý định là chẳng bao lâu sau đó chạy trở lại. - Ồ, đừng có nói thế. Trong đời anh, anh vẫn thường thất vọng và tuy thế sự việc đã trở nên đâu vào đấy mà. - Thực à! Đó là vì tôi tìm thấy một vài khuây khoả hoặc ma tuý. Một đôi khi đó là một người đàn bà, một đôi khi là một người bạn tốt – vâng, anh nữa cũng có lần đã giúp đỡ tôi theo cách đó – những khi khác thì đó là âm nhạc hoặc sự tán thưởng hoan hô ở hí viện. Nhưng hiện giờ những điều này không còn đem đến cho tôi lạc thú nữa và đó là lẽ gì tôi uống rượu. Tôi có thể không bao giờ hát mà trước tiên không uống vài ly, nhưng nay thì tôi không thể còn nghĩ ngợi, nói năng sinh sống hoặc cảm thấy có thể chịu đựng kham mà không trước hết có một vài ly. Dù sao đi nữa, anh nên chấm dứt cái việc giảng dạy tôi, bất kỳ anh nghĩ gì. Cái tình cảnh tương tự đã một lần nổi dậy trước đây, khoảng mười hai năm trước. Một người nào đó lúc bấy giờ cũng giảng dạy tôi và không để cho tôi một mình. Đó là chuyện cô gái, và bởi một sự ngẫu hợp đó cũng là một người bạn tuyệt nhất của tôi nữa. - Và chuyện ra sao? - Bấy giờ tôi bị bắt buộc phải tống cổ anh ta đi. Sau đấy tôi không có một người bạn nào trong một thời gian dài – thật ra, không có mãi đến khi anh xuất hiện. - Chuyện đó thì hiển nhiên rồi. - Không phải thế sao? – anh ta nói một cách ôn hoà – Phải, anh cũng có thể vứt bỏ tôi nữa. Nhưng tôi sẽ nói rằng tôi sẽ rất đau buồn nếu anh bỏ tôi vào lúc lạc lõng đúng như hiện giờ. Tôi đã bị ràng buộc với anh và tôi cũng nghĩ đến chuyện làm một cái gì đó để đem đến cho anh thích thú. - Anh có thế à? Chuyện gì nào? - Nghe đây. Anh thì ưa thích nhà tôi, hay ít ra anh vẫn thường có vậy, và tôi cũng ưa thích nàng nữa, rất nhiều như vậy mà. Tối nay hãy để chúng ta có một bữa tiệc mừng vậy, chỉ có anh và tôi thôi, để tôn vinh nàng. Có một lý do đặc biệt về chuyện đó. Tôi đã có một bức chân dung được vẽ của nàng, nàng thường phải đi đến nhà nghệ sĩ trước đây trong năm và tôi cũng thường đi với nàng. Bức chân dung đã gần như sẵn sàng khi nàng bỏ đi. Nhà hoạ sĩ muốn nàng ngồi làm mẫu một lần nữa, nhưng tôi đã chờ đợi mỏi mòn và đã ra lệnh cho bức hoạ cứ gởi tới như thế. Đó là một tuần lễ trước đây, và hiện thời nó đã được đóng khung và gởi đến đây ngày hôm qua. Tôi sẽ để cho anh xem ngay, nhưng sẽ tuyệt hơn có một bữa tiệc mừng nó. Mà chuyện đó sẽ không mấy tốt đẹp nếu không có một ít sâm banh. Làm thế nào chúng ta có thể thưởng thức nó ngược lại? Anh đồng ý chớ? Tôi đã ý thức đến mối xúc động và cả đến những dòng lệ ở đằng sau cái thái độ đùa bỡn đó của anh ta và tôi đã đồng ý một cách vui vẻ, mặc dù thực ra tôi không ở trong cái trạng thái vui vẻ đó. Chúng tôi làm những xếp đặt cho bữa tiệc để mừng người đàn bà mà nàng hình như đã hoàn toàn mất mát với anh ta đến như thế, cũng như nàng là thực sự như thế đối với tôi. - Anh có thể nhớ nàng ưa thích những thứ hoa nào chăng? – anh ta hỏi tôi – Tôi chẳng biết gì về bông hoa hoặc chúng được gọi là gì. Chị ta luôn luôn có một ít bông hoa màu trắng và màu vàng, và cũng có những bông hoa màu đỏ nữa. Anh có biết nó là tên gì không? - Vâng, tôi có biết một ít. Tại sao? - Anh phải đi mua một số ấy. Gọi một chiếc tắc xi. Dù sao tôi phải đi ra phố đây. Chúng ta sẽ hành động như thể nàng có mặt tại đây này.
Anh ta đã làm nhiều điều khác nữa đã làm tôi đã nhận ra là anh đã nghĩ đến Gertrude một cách sâu xa và không ngớt như thế nào. Điều đó làm cho tôi có hia điều là sung sướng và buồn rầu để quan sát việc làm này. Vì nàng, anh ta không còn nuôi chó nữa và sống trơ trọi một mình, khi trước anh ta có thể chẳng bao giờ không có những người đàn bà lâu như vậy. Anh đã có bức chân dung được hoạ của nàng. Anh ta đã yêu cầu tôi mua những bông hoa mà nàng thích. Việc đó tuồng như anh ta đã cởi bỏ chiếc mặt nạ đi và tôi đã thấy một khuôn mặt trẻ con đằng sau cái diện mạo khắc khổ, vị kỷ đó. - Nhưng – tôi chống chế - chúng ta phải được xem bức chân dung ngay hiện giờ hoặc chiều nay. Xem hình ảnh vào ban ngày bao giờ cũng tốt hơn. - Có chuyện đó à? Anh có thể xem lại vào ngày mai. Tôi hy vọng là một hoạ phẩm đẹp, nhưng thực ra thì nó không quan trọng đến vậy, chúng ta chỉ muốn nhìn nàng thôi. Sau bữa ăn, chúng tôi đi ra phố để làm một ít mua sắm, trước hết là bông hoa, một bó lớn hoa cúc, một giỏ hồng và hai bó tử đinh hưởng trắng. Anh ta cũng bất thần có cái ý kiến là có một số lượng to lớn bông hoa gởi cho Gertrude tại R. - Có một cái gì đáng yêu về hoa – anh ta nói một cách thâm trầm – Tôi có thể hiểu việc Gertrude ưa thích nó. Tôi cũng thích bông hoa nữa, nhưng tôi không thể bỏ công săn sóc bất kỳ cái gì giống như thế. Khi không có đàn bà để săn sóc chúng, thì chúng luôn luôn có vẻ như không được quan tâm với tôi và không thực sự đem đến cho tôi thích thú. Vào buổi tối, tôi nhận thấy bức chân dung đã được đặt vào phòng nhạc và được che phủ bằng một tấm vải lụa. Chúng tôi đã có một bữa ăn tuyệt ngon, sau đó Muoth ao ước trước hết được nghe dạo khúc lễ cưới. Khi tôi tấu lên, anh ta đã lấy tấm vải che bức chân dung đi và chúng tôi đứng đối diện nó một lúc trong im lặng. Gertrude đã được vẽ duỗi dài chân tay trong bộ y phục mùa hè của nàng, và cặp mắt tinh anh của nàng từ bức hoạ nhìn ra chúng tôi một cách đầy tin cậy. Một khoảng thời gian nào đó trước khi chúng tôi có thể nhìn nhau và bắt tay nhau. Heinrich rót đầy hai ly rượu vang vùng Rhine, cúi đầu trước bức chân dung, và chúng tôi đã uống cho người đàn bà mà cả hai chúng tôi đều nghĩ đến. Rồi một cách thận trọng anh ta lấy bức hoạ và đem ra khỏi phòng. Tôi yêu cầu anh ta hát một cái gì đó nhưng anh ta không ước ao làm như vậy. - Anh có nhớ - anh ta mỉm cười nói – chúng ta đã trở lại với nhau một tối ra sao trước lễ cưới của tôi không? Hiện tại thì tôi là một tên độc thân một lần nữa và chúng ta lại sẽ cố làm cho mình vui vẻ hơn một vài ly rượu và có được một ít vui thú. Ông Teiser bạn của anh phải có mặt ở đây, ông ta biết làm sao để vui vẻ hơn là anh và tôi. Hãy chuyển đến ông ta lời cầu chúc tốt đẹp của tôi khi anh trở lại nhà. Ông ta không thể chịu nổi tôi, nhưng cũng như nhau vậy thôi. Với sự vui vẻ duy trì đều đặn đó vốn là đặc tính của những giờ tuyệt nhất của anh ta, anh ta bắt đầu tán gẫu và nhắc nhở tôi những việc đã xảy ra trong quá khứ, và tôi đã ngạc nhiên ở chỗ anh ta còn nhớ tới những việc đó nhiêu như thế nào. Cả đến những việc tình cờ nhỏ nhặt tôi nghĩ rằng anh ta đã quên từ lâu thế mà vẫn còn trong ký ức của anh ta. Anh ta còn không quên cả đến cái buổi tối đầu tiên tôi ở lại nhà anh ta, cùng với Marian và Kranzl, và cái cách thức mà chúng tôi đã cãi vã đó. Chỉ có về Gertrude là anh ta hoàn toàn im lặng. Anh ta không đề cập tới cái thời kỳ mà nàng đã đến trong cuộc sống của chúng tôi và tôi lấy làm vui mừng việc anh ta không làm như thế. Tôi cảm thấy thích thú về cái buổi tối vui vẻ bất ngờ này và để cho anh ta thù tạc cho mình một cách thoải mái với rượu vang hảo hạng mà không khiển trách khuyến dụ anh ta. Tôi đã biết những sắc thái này đối với anh nó hiếm hoi là dường nào, và anh ta đã vui vẻ và bám sát vào nó khi nó đến với anh một cách ngẫu nhiên như thế nào, và những sắc thái đó không bao giờ nó đến mà không có sự hỗ trợ của rượu vang. Tôi cũng biết rằng cái sắc thái tính khí này sẽ không kéo dài và vào ngày mai anh ta lại sẽ cau có bực bội và khó làm thân được . Dầu vậy nó đã đem đến cho tôi một cảm giác hạnh phúc và gần như hoan hỉ để lắng nghe những nhận xét thông minh, thâm trầm, dù rằng có lẽ là mâu thuẫn của anh ta. Trong khi nói chuyện, một cách ngẫu nhiên anh hướng đến tôi một trong những cái thoáng nhìn quyến rũ của anh ta, mà anh ta chỉ làm thế vào những giờ như những giờ này mà thôi, và những cái thoáng nhìn ấy hệt như những cái thoáng nhìn của một người vừa mới thức giấc từ một giấc mơ. Một lúc sau, khi anh ta ngồi im lặng và nghĩ ngợi, tôi bắt đầu nói với anh ta những gì mà ông bạn thông thiên học của tôi đã nói với tôi về sự bệnh hoạn của con người cô đơn. - Ồ - anh ta nói trong trạng thái vui vẻ - và tôi thiết tưởng anh tin ở ông ta. Anh sẽ trở nên một nhà thần học. - Do đâu anh nói đến điều đó? Dù sao, có thể có một cái gì trong câu nói ấy mà. - Ồ, cố nhiên rồi. Những người minh triết cứ không ngớt đôi khi chứng minh rằng mọi sự chỉ là tưởng tượng. Anh biết không, tôi thường hay đọc những cuốn sách như thế trong quá khứ và tôi có thể nói với anh rằng chúng là vô ích, tuyệt đối vô ích. Tất cả các điều mà các triết gia này viết ra đó chỉ là một trò đùa, có lẽ họ an ủi mình với cái đó. Một triết gia giảng dạy về chủ nghĩa cá nhân bởi vì ông ta không thể chịu nổi các người đương thời với ông ta, và người khác thuyết giảng về chủ nghĩa xã hội bởi vì ông ta không thể chịu đựng sự cô đơn trơ trọi. Có thể rằng cảm giác của chúng ta về nỗi cô đơn là một bệnh hoạn, song ta không thể làm bất cứ điều gì về cái đó cả. Chứng thuỵ du cũng là một bệnh hoạn, và đó là do đâu một người khốn khổ ở chứng đó đang đứng thực sự trên mái ngói, và khi một người nào đó gọi y, thì y ngã nhào và gãy cổ. - Việc đó hoàn toàn khác hẳn. - Có thể. Tôi sẽ không nói là tôi đúng. Tôi chỉ định nói rằng ta không đạt được bất kỳ nơi nào với sự khôn ngoan đó. Chỉ có hai loại minh triết, tất cả cái còn lại chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. - Hai loại minh triết anh định nói đến là hai loại nào vậy? - Vâng, đó là cuộc đời là xấu xa hoặc vô nghĩa, cũng như thuyết giáo của Phật giáo và Ki tô giáo, trong mỗi trường hợp ta phải khổ hạnh và chối bỏ tất cả mọi sự - tôi tin ta có thể đạt đến sự thanh thản trí óc trong phương thức này – các nhà khắc kỷ không có một cuộc sống khổ nhọc như thiên hạ tưởng đâu. Hoặc khác nữa là cuộc đời và đời sống là tốt đẹp và chí lý – bấy giờ ta có thể chỉ dự phần trong đó thôi và sau đấy vĩnh biệt trần gian một cách ung dung, thư thái, bởi vì nó đã chấm hết. - Chính anh thì anh tin ở điều nào? - Không ích gì đặt câu hỏi đó. Hầu hết thiên hạ đều tin cả hai, tuỳ thuộc vào thời tiết khí hậu, sức khoẻ của họ, và việc phải chăng họ có tiền trong bóp của họ hay không. Và đối với những người thực sự tin tưởng đó cũng không sống phù hợp với những tín ngưỡng của họ. Điều đó cũng có ra sao với tôi nữa. Chẳng hạn, tôi tin như Đức Phật rằng đời sống là phù du vô thường, nhưng tôi sống cho những điều mà nó hấp dẫn lương tri của tôi như thể đây là điều quan trọng nhất để làm nếu chỉ để được thoả mãn hơn thôi! Lúc ấy hãy chưa khuya lắm khi chúng tôi chấm dứt câu chuyện. Khi chúng tôi đi sang phòng kế bên , nơi đây chỉ có một bóng đèn duy nhất được thắp lên, Muoth nắm lấy tay tôi và dừng tôi lại, vặn lên tất cả các ngọn đèn và lấy đi tấm màn che ở bức chân dung của Gertrude, dựng tại đấy. Một lần nữa chúng tôi nhìn vào cái gương mặt thân yêu dịu dàng đó, rồi anh ta lại phủ tấm màn lên bức chân dung và tắt hết các ngọn đèn. Anh ta đi với tôi về phòng tôi và để vài tờ tạp chí trên bàn trong trường hợp tôi sẽ cần đọc. Đoạn anh ta bắt tay tôi và nói một cách nhỏ nhẹ: - Xin chúc ngủ ngon, ông bạn thân quý! Tôi lên giường ngủ và nằm đó thức khoảng nửa giờ, nghĩ ngợi về anh. Điều làm tôi xúc động và khiến tôi cảm thấy hổ thẹn khi nghe anh ta nhớ lại một cách trung thành tất cả những biến cố nhỏ nhặt của tình bạn của chúng tôi như thế nào. Anh ta, người đã nhận thấy khó khăn để kéo dài mối tình bạn đó, đã bám vào những kẻ mà anh quan tâm đến một cách nồng nàn nhiệt thành hơn là tôi tưởng. Sau đó tôi ngủ được và đã có những giấc mơ lẫn lộn về Muoth, về vở đại nhạc kịch của tôi và về ông Lohe. Khi tôi thức dậy, thì trời vẫn còn tối. Tôi đã thức giấc mơ của tôi. Tôi thấy cái buổi rạng đông xám xịt khô khan đang dần đến đóng khung bởi cánh cửa sổ và đã có một cảm giác thống khổ sâu đậm. Tôi ngồi dậy và cố phá tan giấc ngủ của tôi để nghĩ ngợi một cách rõ ràng hơn. Lúc bấy giờ có những tiếng gõ mạnh khẩn cấp ở cánh cửa phòng tôi. Tôi nhảy ra khỏi giọng và mở cửa ra. Trời thì lạnh lẽo và tôi hãy chưa vặn đèn lên. Người giúp việc đứng bên ngoài, ăn mặc một cách cẩu thả, và trừng trừng nhìn tôi một cách đầy lo lắng ái ngại với cặp mắt đầy khủng khiếp. - Ông sẽ vui lòng đến được chăng? – y thì thào, thở hổn hển – Có tai biến rồi. Tôi khoác chiếc áo thụng vào và đi theo người thanh niên xuống cầu thang. Y mở cửa ra, đứng ở sau và để tôi bước vào. Trong phòng có một cái bàn mây nhỏ với cái giá cắm nến trên đó có ba ngọn nến lớn đang cháy. Bên cạnh bàn là một cái giọng bừa bãi hỗn độn và trên đó, một người đàn ông đang nằm sấp, đó là bạn tôi Heinrich Muoth. - Chúng ta nên trở anh ta lại – tôi nói nho nhỏ. Người giúp việc không tin cậy ở mình để làm việc đó. - Tôi sẽ đi tìm bác sĩ ngay – hắn nói lắp bắp. Nhưng tôi đã bắt buộc hắn lật anh ta lại và chúng tôi đã lật người đàn ông nằm sấp đó lại. Tôi nhìn vào gương mặt bạn tôi, nó trắng bệch và méo mó. Áo sơ mi anh ta ướt đẫm máu, và khi chúng tôi để anh ta nằm xuống và đắp anh ta lại thì cái miệng anh ta giựt giựt và cặp mắt anh ta không còn nhìn thấy nữa. Bấy giờ người giúp việc bắt đầu kể với tôi cách kích thích những gì đã xảy ra nhưng tôi không muốn biết bất kỳ điều gì nữa. Khi viên bác sĩ đến thì Muoth đã chết. Buổi sáng tôi đi đánh điện tín cho Imthor. Rồi trở về với ngôi nhà im lặng đó, ngồi bên giường người quá cố, lắng nghe gió thổi trên hàng cây bên ngoài, và chỉ lúc đó tôi mới nhận ra tôi đã yêu quý con người bất hạnh này biết chừng nào. Tôi không thể nào khóc than cho anh ta, cái chết của anh ta dễ chịu hơn là đời sống của anh. Buổi tối tôi đứng ở nhà ga và thấy ông cụ Imthor bước ra khỏi chiếc xe lửa, tiếp theo là một người đàn bà cao ráo vận y phục đen. Tôi đưa họ trở về với tôi tới nhà người quá cố, hiện giờ đã được tẩm liệm và chiếc quan tài của anh ta được đặt giữa những bông hoa của ngày hôm trước. Gertrude đã cúi xuống và hôn lên đôi môi nhợt nhạt của anh ta. Khi chúng tôi đứng bên cạnh mộ chí của anh ta, tôi thấy một người đàn bà cao ráo quyến rũ với một gương mặt đầm đìa nước mắt, nàng cầm mấy cái hoa hồng trong tay và đứng trơ trọi một mình, và khi tôi nhìn ngang qua nàng một cách hiếu kỳ tôi tôi nhận ra đó là Lottie. Nàng gật đầu với tôi và mỉm cười. Nhưng Gertrude thì không khóc than gì cả, nàng đứng nhìn thẳng trước mặt nàng, một cách chăm chú và quả quyết, và giữ cho mình giống như một thân cây trẻ trung được chống đỡ bởi những cái rễ rắn chắc. nhưng đấy chỉ là sự tự chế mà thôi, hai ngày sau đó, khi nàng tháo mở những bó hoa của Muoth ra, nó đã đến nhà nàng giữa khi ấy, thì nàng đã ngã quỵ và chúng tôi đã không gặp nàng trong một thời gian dài.
Chỉ trong sự hiện diện của Gertrude mà nhiệt tình của tôi mới dịu bớt. Dẫu rằng tôi rồ dại và đủ đê tiện mới theo đuổi những khát vọng của tôi và, chẳng kể gì đến chồng nàng, một người là bạn tôi, để cố chiếm đoạt con tim nàng, tôi ắt đã hổ thẹn để chứng tỏ bất cứ điều gì ngoại trừ lòng giao cảm và lòng tôn kính khi đối diện bởi người đàn bà buồn rầu, dịu dàng này, người đã hoàn toàn phong kín trong nỗi sầu muộn của nàng đến thế kia. Nàng còn khốn khổ và có vẻ mất mát hy vọng bao nhiêu thì nàng càng trở nên kiêu hãnh hơn và không thể đạt đến bấy nhiêu. Nàng đã giữ cho cái đầu kiều mị đen huyền của nàng thẳng đứng cũng như kiêu hãnh như tự bao giờ và không cho phép bất kỳ ai trong chúng tôi làm một cố gắng nhỏ nhất để tiến đến với nàng, và giúp đỡ nàng. Những tuần lễ dằng dặc của sự yên lặng đe doạ này có lẽ là thời gian khó khăn nhất trong đời tôi. Ở đây Gertrude gần gũi với tôi tuy không thể nào tiếp xúc được, với không một lối nào để tôi tiến đến với nàng; Brigitte người mà tôi biết đã yêu tôi và người mà với nàng đã lẩn tránh một thời gian, một mối tương giao khả dĩ đã dung nạp được lần hồi được thiết lập. Và giữa tất cả chúng tôi có bà mẹ già của tôi, người đã nhìn thấy sự khốn khổ của chúng tôi, đã đoán ra tất cả mọi sự song không cho phép mình nói lên bất cứ điều gì, cũng như chính tôi đã duy trì một sự im lặng tối tăm và cảm thấy không thể nào nói với bà bất cứ điều gì về cái trạng thái của tôi. Nhưng tệ hại hơn cả là sự khủng khiếp đã bức bách phải nhìn vào với niềm xác tín vô vọng rằng những bằng hữu tuyệt nhất của tôi đang dẫn đầu đến một tai hoạ, mà không phải chính tôi có thể tiết lộ là tôi đã biết lý do vì sao. Thân phụ Gertrude hình như khốn khổ hơn hết. Tôi từng biết ông trong nhiều năm như là một người sáng suốt, nghị lực, tự tin nhưng nay thì ông đã già nua và biến đổi, ông nói năng nhỏ nhẹ và ít bình tĩnh hơn, ông không còn đùa cợt nữa, và trông âu lo, khốn đốn. Một hôm tôi đến thăm ông vào tháng mười một, chính ra là để được nghe bất kỳ tin tức nào và để làm cho tôi vui vẻ hơn lên là để an ủi ông cụ. Ông tiếp tôi tại phòng làm việc của ông, tặng tôi một trong những điếu xì gà đắt giá của ông và bắt đầu nói với tôi trong một thái độ lịch sự, nhã nhặn. Ông cụ đã làm điều này với một cố gắng và chẳng bao lâu đã bỏ mặc. Cụ nhìn đến tôi với một cái mỉm cười phiền muộn và nói: - Anh muốn biết sự việc ra sao, phải không? Rất là thảm hại, ông bạn quý của tôi. Con bé đã khốn khổ nhiều hơn là chúng ta biết, bằng không hẳn nó đã đối phó với tình cảnh khá hơn. Tôi tán đồng chuyện ly dị nhưng nó lại không chịu nghe. Nó yêu hắn, ít ra nó nói như vậy và tuy vậy lại sợ hắn. Thật là tệ hại. Con nhỏ thì ốm yếu, nó nhắm mắt lại, sẽ không chịu nghe điều phải trái gì nữa cả, và cho rằng mọi sự sẽ tốt đẹp nếu thiên hạ sẽ chỉ chờ đợi và để cho nó được yên tĩnh. Cố nhiên, đấy chỉ là nghị lực, nhưng sự ốm yếu của nó có vẻ đã bắt nguồn sâu xa hơn. Hãy nghĩ xem, thỉnh thoảng nó còn sợ rằng chồng nó có thể ngược đãi nó nếu nó trở lại với hắn, và tuy vậy nó vẫn yêu hắn. Ông cụ có vẻ không hiểu biết nàng và nhìn cái chuỗi những biến cố đó với một cảm giác vô vọng. Đối với tôi, thì nỗi khốn khổ của nàng hoàn toàn có thể quan niệm được là do kết quả của sự tranh chấp giữa tình yêu và lòng kiêu hãnh. Nàng không sợ anh ta sẽ đánh đập nhưng sợ rằng nàng sẽ không còn tôn kính anh ta nữa, và trong khi trì hoãn một cách áy náy lo ngại, nàng đã hy vọng phục hồi lại sức mạnh của nàng. Nàng đã có thể chế ngự và làm thăng bằng anh ta nhưng bởi làm việc này nên nàng đã làm cho mình mệt nhoài đến nỗi nàng không còn tự tin ở những sức mạnh của nàng nữa, đó là sự đau ốm của nàng. Nàng khao khát mong mỏi anh ta và tuy thế lại sợ rằng nàng sẽ hoàn toàn đánh mất anh ta nếu một cố gắng mới mẻ ở việc giải hoà chứng tỏ là không thành công. Hiện tại tôi đã thấy một cách rõ ràng là vô ích và hư ảo biết bao ở những xét đoán liều lĩnh của tôi về việc chiếm được tình yêu của nàng. Gertrude đã yêu chồng nàng và sẽ không khi nào quan tâm đến bất kỳ ai nữa cả. Ông cụ Imthor đã tránh nói với tôi về Muoth, khi ông biết tôi là bạn của anh ta, nhưng ông đã thù ghét anh ta và không thể hiểu làm sao mà anh ta có thể hấp dẫn được Gertrude. Ông cho anh ta như một thứ phù thuỷ nham hiểm có thể chiếm đoạt người thơ ngây trinh trắng và chẳng khi nào chịu buông tha họ cả. Đam mê luôn là một điều huyền nhiệm không thể giải thích được, và tiếc thay không có gì ngờ rằng đời sống không thương xót dung tha cho những đứa bé con trinh thuần nhất của nó và thường khi chỉ có người xứng đáng nhất người mà không thể nào không yêu thương những kẻ mà họ đã huỷ diệt chính họ. Đang trong tâm trạng phiền muộn này, thì tôi nhận được một bức thư ngắn từ Munich, đã làm vơi đi sự căng thẳng đó. Anh ta viết: Kuhn thân mến, Vở đại nhạc kịch của anh hiện tại sẽ được trình diễn ở khắp mọi nơi, có lẽ rất vui thú nếu anh sẽ lại đến đây, nói rõ ra là tuần tới, khi tôi hát trong vai trò trong đại nhạc kịch của anh tới hai lần. Anh biết rằng nhà tôi bị đau và tôi ở đây có một mình. Như thế anh có thể ở lại với tôi mà không phải khách sáo gì. Thân ái, Muoth Anh ta ít viết thư lắm, và chưa bao giờ có bất kỳ thư từ nào mà không cần thiết, cho nên tôi đã quyết định đi ngay lập tức. Anh ta hẳn đã cần đến tôi. Vì trong một phút giây tôi nghĩ nên nói cho Gertrude biết. Có lẽ đây là cơ hội để phá vỡ cái chướng ngại vật đó. Có lẽ nàng sẽ trao cho tôi một bức thư đem đến cho anh ta, hoặc chuyển giao một tin tức ân cần, yêu cầu anh ta tìm đến hoặc ngay cả đến với tôi. Điều đó chỉ là một ý tưởng, nhưng tôi không thực hành nó. Tôi chỉ viếng thăm thân phụ nàng trước khi lên đường. Lúc đó vào cuối thu, thời tiết thật tệ hại, ẩm ướt và bão tố. Từ Munich có lúc ta có thể thấy hàng giờ những rặng núi kế cận, đã bị bao phủ với tuyết tươi rói. Thành phố đìu hiu và ướt át với mưa gió. Lập tức tôi đi đến nhà Muoth. Mọi đồ vật ở đấy đều tương tự như nó đã có một năm trước đó, cũng người giúp việc ấy cũng những căn phòng như thế và sự sắp xếp đồ đạc tương tự, nhưng nơi đó trông không có người ở và trống trải quạnh hiu, nó cũng thiếu những bông hoa Gertrude luôn luôn trang trí. Muoth không có ở nhà. Người giúp việc dẫn tôi vào căn phòng và giúp tôi lấy đồ đạc ra. Tôi thay y phục, và khi mà chủ nhà vẫn chưa về, tôi đi vào phòng nhạc, nơi tôi có thể nghe cây cối rì rào đàng sau cánh cửa sổ và có nhiều thì giờ để nghỉ tới quá khứ. Tôi càng ngồi đó nhìn lên các bức hình và lật lật các trang sách bao nhiêu thì tôi càng trở nên buồn bã bấy nhiêu, như thể là căn nhà này nó vượt quá sự giúp đỡ. Tôi ngồi xuống một cách nhẫn nhục cạnh chiếc dương cầm để tống khứ đi những ý nghĩ vô tích sự này, và tôi đã đánh lên dạo khúc lễ cưới mà tôi đã soạn, như thể bằng cách làm như vậy tôi có thể mang trở lui niềm hạnh phúc đầm ấm của quá khứ. Sau cùng tôi nghe có bước chân thoăn thoắt, nặng nề gần bên và Heinrich Muoth bước vào. Anh ta chìa tay ra và nhìn tôi một cách mệt mỏi. - Xin tha thứ việc tôi về trễ - anh ta nói – Tôi mắc bận tại hí viện. Anh biết là tôi sẽ hát vào tối nay. Bây giờ chúng ta sẽ đi ăn chứ? Tôi theo anh ta ra khỏi căn phòng. Tôi nhận thấy anh ta đã thay đổi, anh ta lơ đãng và hờ hững. Anh ta chỉ nói đến hí viện và có vẻ như miễn cưỡng để bàn bạc bất cứ điều gì khác. Chỉ sau bữa ăn, khi chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế mây màu vàng, anh mới nói một cách bất ngờ: - Anh đến rất là thuận tiện. Tối nay tôi sẽ làm một cố gắng đặc biệt. - Cảm ơn – tôi nói – Trông anh không được khoẻ. - Tôi ư? Vâng – chúng ta sẽ vui vẻ ngay. Tôi là một người goá vợ mà. Anh biết điều đó chứ phải không? - Vâng. Anh nhìn đi chỗ khác. - Anh có tin tức gì về Gertrude không? - Chẳng có gì đặc biệt. Chị ấy vẫn còn ở trong tình trạng căng thẳng và ngủ không được nhiều. - Ồ phải, thôi chúng ta đừng nói đến chuyện đó. Nàng ở trong đôi tay tốt lành mà. Anh ta đứng dậy và đi lại trong phòng. Tôi cảm thấy rằng anh ta vẫn còn muốn nói một điều gì đó. Anh ta nhìn đến tôi một cách không chớp mắt và, tôi nghĩ, đã có sự ngờ vực. Rồi anh ta cười lên và giữ lại không nói ra. - Lottie à? - Phải, Lottie, người một lần có đến thăm anh và kể cho anh nghe một câu chuyện về tôi đấy. Nàng đã kết hôn với một người nào đó ở đây, và cho thấy rằng nàng vẫn còn chú ý đến tôi. Nàng đã tìm đến thăm tôi tại đây. Anh ta lại nhìn tôi một cách e thẹn và cười lên khi anh ta thấy rằng tôi đã xúc động. - Thế anh có tiếp cô ấy không? – tôi hỏi với một do dự nào đó. - Ồ, anh nghĩ tôi có khả năng về điều đó ư? Không ông bạn thân quý, tôi đã tống khứ cô ta đi rồi. Nhưng hãy tha thứ tôi, tôi kể chuyện vô nghĩa gì đâu không. Tôi mệt kinh khủng đến thế, và tôi phải hát vào tối nay. Nếu anh không quan tâm thì tôi sẽ đi nằm một giờ đồng hồ và cố để ngủ vậy. - Nhất định rồi, Heinrich, nghỉ ngơi, tốt nhất. Tôi sẽ đi ra phố một chút. Anh sẽ kêu cho tôi một chiếc tắc xi được chứ? Tôi không thể nào ngồi trong căn nhà này trong sự im lặng một lần nữa và nghe gió thổi trên các cành cây. Tôi đi ra phố không có mục đích nào cả, và lang thang vào viện bảo tàng nghệ thuật cũ kĩ. Tôi xem các tranh ảnh hằng nửa giờ trong cái ánh sáng tệ hại. Rồi tới giờ nó đóng cửa và tôi có thể nghĩ không gì tốt hơn là đọc báo tại một quán cà phê và nhìn qua những khung cửa sổ lớn xuống con đường ẩm ướt. Tôi đã quyết định là tôi sẽ phá vỡ cái hàng rào lạnh nhạt lạnh lùng này bằng bất cứ giá nào và nói một cách công khai với Heinrich. Nhưng khi tôi trở lại, tôi nhận thấy anh ta mỉm cười và ở trong trạng thái vui vẻ. - Tôi chỉ cần một giấc ngủ thôi – anh ta nói một cách tươi tỉnh – Hiện giờ tôi cảm thấy hoàn toàn phục hồi. Anh phải chơi một cái gì cho tôi nghe đi! Dạo khúc đi, nếu anh sẽ tốt như thế. Đã hài lòn và ngạc nhiên thấy một sự thay đổi bất thần như thế ở anh ta, tôi đã làm như anh mong muốn. Khi tôi đàn xong, anh ta bắt đầu nói như anh vẫn hay thế, một cách châm biếm và hơi có phần hoài nghi. Anh ta để cho trí tưởng tượng của anh ta mặc sức tung hoành và lại trọn vẹn chiếm ngự tâm hồn tôi. Tôi nghĩ đến những ngày ban sơ của tình bạn chúng tôi, và khi chúng tôi rời khỏi nhà vào buổi tối, tôi nhìn quanh quất một cách vô tình và nói: - Bây giờ anh không nuôi chó nữa à? - Không, Gertrude không thích chó. Chúng tôi đi đến híviện trong im lặng. Tôi chào mừng ông nhạc trưởng và đã được hướng dẫn đến chỗ ngồi. Tôi lại nghe âm nhạc từng quen biết, nhưng mọi sự đã khác hẳn từ lần cuối cùng. Tôi ngồi một mình trong ngăn nhỏ của tôi, Gertrude thì vắng mặt, và người đàn ông cử động và hát phía dưới đó cũng đã đổi thay. Anh ta hát với sự cuồng nhiệt và say sưa. Công chúng có vẻ ưa thích anh ta trong vai trò này và đã theo dõi với sự sốt sắng từ lúc khởi đầu. Nhưng đối với tôi thì sự cuồng nhiệt đó có vẻ quá đà và giọng hát của anh ta cũng quá to, gần như là bị bắt buộc. Vào lúc tạm nghỉ đầu tiên tôi đi xuống gặp anh. Anh ta trở lại phòng để uống sâm banh, và khi trao đổi một vài lời với anh ta tôi thấy rằng cặp mắt anh ta láo liên ,giống hệt một người say rượu. Sau đó trong khi Muoth thay y phục, tôi đi đến gặp ông nhạc trưởng. - Xin nói cho tôi biết – tôi yêu cầu – có phải Muoth ốm chăng? Tôi thấy rằng hình như anh ta để mình tiếp tục với sâm banh. Ông biết rằng anh ta là bạn tôi phải không? Ông ta nhìn đến tôi trong tuyệt vọng. - Tôi không biết anh ấy có ốm không nữa, nhưng điều hoàn toàn rõ ràng là anh ấy đã tự huỷ hoại mình. Một đôi khi anh ấy lên sân khấu gần như say mèm, và nếu có bao giờ anh ấy thiếu rượu, thì anh ấy hành động và hát thật tệ hại. Anh ấy luôn luôn có thói quen có một ly sâm banh trước khi xuất hiện, nhưng hiện tại thì anh ấy không bao giờ có ít hơn cả chai. Nếu anh muốn đưa ra một lời khuyên can với anh ấy – nhưng anh có thể ít làm được chuyện đó lắm. Rõ ràng là Muoth đang huỷ hoại mình. Muoth tiến đến tôi và chúng tôi đi đến chiếc quán gần nhất để dùng cơm. Anh ta lại uể oải bơ phờ và trầm mặc, nhưng anh ta đã có vào bữa cơm trưa, uống một số lớn rượu vang nặng, vì nếu không thì anh ta không thể ngủ được, và trông như thể là anh muốn để quên với bất cứ giá nào những điều khác nữa trên đời hơn là sự mệt mỏi và muốn ngủ của anh ta. Trên đường trở về trên chiếc tắc xi anh đã tươi tỉnh tôi một giây lát, cười và nói: - Bạn tôi, một khi tôi biến mất, anh có thể ngâm giấm vở đại nhạc kịch của anh. Không có ai khác ngoại trừ tôi mới có thể hát cái phần đó. Sáng hôm sau anh dậy trễ và vẫn còn mệt mỏi và uể oải, với cặp mắt nhớn nhác láo liên và một gương mặt tái mét. Sau khi anh ta đã dùng điểm tâm tôi dắt anh qua bên cạnh và nói với anh ta: - Anh đang tự giết mình – tôi nói, có cả sự áy náy lo ngại và trách cứ - Anh làm hồi phục mình với sâm banh và tự nhiên là sau đó anh phải trả tiền cho việc đó. Tôi có thể tưởng tượng tại sao anh làm thế, và tôi sẽ không nói gì nếu anh không có vợ. Anh đã nợ chị ấy sự tôn kính và lòng can đảm, một cách cả bên trong lẫn bên ngoài. - Thực ư? – anh ta mỉm cười yếu đuối, rõ ràng là giễu cợt bởi sự trách móc của tôi – Và nàng nợ tôi gì đây? Nàng đã ở lại với thân phụ nàng và để tôi một mình cả đấy. Tại sao tôi sẽ trấn tĩnh lại khi nàng không làm thế? Thiên hạ đã biết rằng chẳng có gì giữa chúng tôi nữa cả lâu rồi và anh cũng biết chuyện đó mà, nhưng nó hoàn toàn cũng thế khi tôi phải hát xướng và mua vui cho thiên hạ. Tôi không thể nào làm điều đó với một cảm giác trống rỗng và chán ghét mà tôi đã có về mọi sự, đặc biệt là về nghệ thuật. - Tuy vậy, anh phải bắt đầu một cuộc đời mới chứ, Muoth! Dường như rượu chè không làm cho anh hạnh phúc mà! Anh tuyệt đối tồi tệ! Nếu việc hát xướng có quá nhiều cho anh trong giây lát, thì yêu cầu được vắng mặt, anh sẽ đạt được điều đó ngay lập tức mà. Anh không tuỳ thuộc vào tiền bạc mà anh kiếm được bởi việc hát xướng. Hãy đi về miền núi hoặc biển, hoặc bất kỳ nơi nào anh thích, để được mạnh khoẻ trở lại. Và hãy bỏ quách cái chuyện rượu chè ngu xuẩn đó đi! Đấy không chỉ là ngu xuẩn mà thôi, đấy còn là hèn nhát nữa. Anh đã hoàn toàn biết rõ chuyện đó mà. Anh mỉm cười ở nhận xét đó. - Ồ phải – anh ta nói một cách trầm tĩnh – Thỉnh thoảng anh có đi nhảy một điệu luân vũ! Điều đó anh cũng sẽ làm tốt đẹp, tin tôi đi! Đừng có luôn luôn nghĩ đến cái chân ngu xuẩn của anh. Đó chỉ là tưởng tượng thôi mà! - Im mồm! – tôi la lên một cách giận dữ - Anh hoàn toàn biết rõ là chuyện đó khác hẳn. Tôi sẽ rất thích khiêu vũ nếu tôi có thể, nhưng tôi không thể khiêu vũ được. Nhưng anh thì hoàn toàn có thể cố gắng sửa đổi tính nết của anh và cư xử hợp lý hơn. Anh phải một cách dứt khoát từ bỏ rượu chè. - Dứt khoát à? Anh Kuhn thân mến, anh làm tôi buồn cười. Chuyện tôi đổi thay và từ bỏ rượu chè đó nó cũng khó khăn như anh khiêu vũ vậy. Tôi phải bám vào những điều mà nó hãy còn nâng cao tinh thần tôi. Anh hiểu chứ? Những người rượu chè đã được cải hoá khi họ tìm thấy một cái gì trong Cứu thế quân hoặc nơi nào khác nữa đem đến cho họ nhiều thoả mãn và nhiều chịu đựng hơn. Đã có lần một cái gì giống như thế có với tôi, nói rõ ra là đàn bà, nhưng có thể tôi chẳng còn chú ý gì đến bất kỳ người đàn bà nào khác kể từ khi nàng thuộc về tôi và nay đã bỏ rơi tôi, thế đấy. - Chị ta đã bỏ rơi anh à? Chị ta sẽ trở lại. Chị ta chỉ bị ốm thôi. - Đó là cái gì anh nghĩ và đó là cái gì chính nàng cũng nghĩ thế, tôi biết, nhưng nàng sẽ không trở lại đâu. Khi một con tàu sắp sửa đắm chìm, thì lũ chuột đã bị bỏ mặc từ trước rồi. Dĩ nhiên, chúng không biết rằng co ntàu đang chìm xuống dưới, chúng chỉ cảm thấy xúc chạm bởi một cảm giác nhẹ của sự nôn mửa và bỏ chạy, không nghi ngờ chi cái ý định là chẳng bao lâu sau đó chạy trở lại. - Ồ, đừng có nói thế. Trong đời anh, anh vẫn thường thất vọng và tuy thế sự việc đã trở nên đâu vào đấy mà. - Thực à! Đó là vì tôi tìm thấy một vài khuây khoả hoặc ma tuý. Một đôi khi đó là một người đàn bà, một đôi khi là một người bạn tốt – vâng, anh nữa cũng có lần đã giúp đỡ tôi theo cách đó – những khi khác thì đó là âm nhạc hoặc sự tán thưởng hoan hô ở hí viện. Nhưng hiện giờ những điều này không còn đem đến cho tôi lạc thú nữa và đó là lẽ gì tôi uống rượu. Tôi có thể không bao giờ hát mà trước tiên không uống vài ly, nhưng nay thì tôi không thể còn nghĩ ngợi, nói năng sinh sống hoặc cảm thấy có thể chịu đựng kham mà không trước hết có một vài ly. Dù sao đi nữa, anh nên chấm dứt cái việc giảng dạy tôi, bất kỳ anh nghĩ gì. Cái tình cảnh tương tự đã một lần nổi dậy trước đây, khoảng mười hai năm trước. Một người nào đó lúc bấy giờ cũng giảng dạy tôi và không để cho tôi một mình. Đó là chuyện cô gái, và bởi một sự ngẫu hợp đó cũng là một người bạn tuyệt nhất của tôi nữa. - Và chuyện ra sao? - Bấy giờ tôi bị bắt buộc phải tống cổ anh ta đi. Sau đấy tôi không có một người bạn nào trong một thời gian dài – thật ra, không có mãi đến khi anh xuất hiện. - Chuyện đó thì hiển nhiên rồi. - Không phải thế sao? – anh ta nói một cách ôn hoà – Phải, anh cũng có thể vứt bỏ tôi nữa. Nhưng tôi sẽ nói rằng tôi sẽ rất đau buồn nếu anh bỏ tôi vào lúc lạc lõng đúng như hiện giờ. Tôi đã bị ràng buộc với anh và tôi cũng nghĩ đến chuyện làm một cái gì đó để đem đến cho anh thích thú. - Anh có thế à? Chuyện gì nào? - Nghe đây. Anh thì ưa thích nhà tôi, hay ít ra anh vẫn thường có vậy, và tôi cũng ưa thích nàng nữa, rất nhiều như vậy mà. Tối nay hãy để chúng ta có một bữa tiệc mừng vậy, chỉ có anh và tôi thôi, để tôn vinh nàng. Có một lý do đặc biệt về chuyện đó. Tôi đã có một bức chân dung được vẽ của nàng, nàng thường phải đi đến nhà nghệ sĩ trước đây trong năm và tôi cũng thường đi với nàng. Bức chân dung đã gần như sẵn sàng khi nàng bỏ đi. Nhà hoạ sĩ muốn nàng ngồi làm mẫu một lần nữa, nhưng tôi đã chờ đợi mỏi mòn và đã ra lệnh cho bức hoạ cứ gởi tới như thế. Đó là một tuần lễ trước đây, và hiện thời nó đã được đóng khung và gởi đến đây ngày hôm qua. Tôi sẽ để cho anh xem ngay, nhưng sẽ tuyệt hơn có một bữa tiệc mừng nó. Mà chuyện đó sẽ không mấy tốt đẹp nếu không có một ít sâm banh. Làm thế nào chúng ta có thể thưởng thức nó ngược lại? Anh đồng ý chớ? Tôi đã ý thức đến mối xúc động và cả đến những dòng lệ ở đằng sau cái thái độ đùa bỡn đó của anh ta và tôi đã đồng ý một cách vui vẻ, mặc dù thực ra tôi không ở trong cái trạng thái vui vẻ đó. Chúng tôi làm những xếp đặt cho bữa tiệc để mừng người đàn bà mà nàng hình như đã hoàn toàn mất mát với anh ta đến như thế, cũng như nàng là thực sự như thế đối với tôi. - Anh có thể nhớ nàng ưa thích những thứ hoa nào chăng? – anh ta hỏi tôi – Tôi chẳng biết gì về bông hoa hoặc chúng được gọi là gì. Chị ta luôn luôn có một ít bông hoa màu trắng và màu vàng, và cũng có những bông hoa màu đỏ nữa. Anh có biết nó là tên gì không? - Vâng, tôi có biết một ít. Tại sao? - Anh phải đi mua một số ấy. Gọi một chiếc tắc xi. Dù sao tôi phải đi ra phố đây. Chúng ta sẽ hành động như thể nàng có mặt tại đây này.
Anh ta đã làm nhiều điều khác nữa đã làm tôi đã nhận ra là anh đã nghĩ đến Gertrude một cách sâu xa và không ngớt như thế nào. Điều đó làm cho tôi có hia điều là sung sướng và buồn rầu để quan sát việc làm này. Vì nàng, anh ta không còn nuôi chó nữa và sống trơ trọi một mình, khi trước anh ta có thể chẳng bao giờ không có những người đàn bà lâu như vậy. Anh đã có bức chân dung được hoạ của nàng. Anh ta đã yêu cầu tôi mua những bông hoa mà nàng thích. Việc đó tuồng như anh ta đã cởi bỏ chiếc mặt nạ đi và tôi đã thấy một khuôn mặt trẻ con đằng sau cái diện mạo khắc khổ, vị kỷ đó. - Nhưng – tôi chống chế - chúng ta phải được xem bức chân dung ngay hiện giờ hoặc chiều nay. Xem hình ảnh vào ban ngày bao giờ cũng tốt hơn. - Có chuyện đó à? Anh có thể xem lại vào ngày mai. Tôi hy vọng là một hoạ phẩm đẹp, nhưng thực ra thì nó không quan trọng đến vậy, chúng ta chỉ muốn nhìn nàng thôi. Sau bữa ăn, chúng tôi đi ra phố để làm một ít mua sắm, trước hết là bông hoa, một bó lớn hoa cúc, một giỏ hồng và hai bó tử đinh hưởng trắng. Anh ta cũng bất thần có cái ý kiến là có một số lượng to lớn bông hoa gởi cho Gertrude tại R. - Có một cái gì đáng yêu về hoa – anh ta nói một cách thâm trầm – Tôi có thể hiểu việc Gertrude ưa thích nó. Tôi cũng thích bông hoa nữa, nhưng tôi không thể bỏ công săn sóc bất kỳ cái gì giống như thế. Khi không có đàn bà để săn sóc chúng, thì chúng luôn luôn có vẻ như không được quan tâm với tôi và không thực sự đem đến cho tôi thích thú. Vào buổi tối, tôi nhận thấy bức chân dung đã được đặt vào phòng nhạc và được che phủ bằng một tấm vải lụa. Chúng tôi đã có một bữa ăn tuyệt ngon, sau đó Muoth ao ước trước hết được nghe dạo khúc lễ cưới. Khi tôi tấu lên, anh ta đã lấy tấm vải che bức chân dung đi và chúng tôi đứng đối diện nó một lúc trong im lặng. Gertrude đã được vẽ duỗi dài chân tay trong bộ y phục mùa hè của nàng, và cặp mắt tinh anh của nàng từ bức hoạ nhìn ra chúng tôi một cách đầy tin cậy. Một khoảng thời gian nào đó trước khi chúng tôi có thể nhìn nhau và bắt tay nhau. Heinrich rót đầy hai ly rượu vang vùng Rhine, cúi đầu trước bức chân dung, và chúng tôi đã uống cho người đàn bà mà cả hai chúng tôi đều nghĩ đến. Rồi một cách thận trọng anh ta lấy bức hoạ và đem ra khỏi phòng. Tôi yêu cầu anh ta hát một cái gì đó nhưng anh ta không ước ao làm như vậy. - Anh có nhớ - anh ta mỉm cười nói – chúng ta đã trở lại với nhau một tối ra sao trước lễ cưới của tôi không? Hiện tại thì tôi là một tên độc thân một lần nữa và chúng ta lại sẽ cố làm cho mình vui vẻ hơn một vài ly rượu và có được một ít vui thú. Ông Teiser bạn của anh phải có mặt ở đây, ông ta biết làm sao để vui vẻ hơn là anh và tôi. Hãy chuyển đến ông ta lời cầu chúc tốt đẹp của tôi khi anh trở lại nhà. Ông ta không thể chịu nổi tôi, nhưng cũng như nhau vậy thôi. Với sự vui vẻ duy trì đều đặn đó vốn là đặc tính của những giờ tuyệt nhất của anh ta, anh ta bắt đầu tán gẫu và nhắc nhở tôi những việc đã xảy ra trong quá khứ, và tôi đã ngạc nhiên ở chỗ anh ta còn nhớ tới những việc đó nhiêu như thế nào. Cả đến những việc tình cờ nhỏ nhặt tôi nghĩ rằng anh ta đã quên từ lâu thế mà vẫn còn trong ký ức của anh ta. Anh ta còn không quên cả đến cái buổi tối đầu tiên tôi ở lại nhà anh ta, cùng với Marian và Kranzl, và cái cách thức mà chúng tôi đã cãi vã đó. Chỉ có về Gertrude là anh ta hoàn toàn im lặng. Anh ta không đề cập tới cái thời kỳ mà nàng đã đến trong cuộc sống của chúng tôi và tôi lấy làm vui mừng việc anh ta không làm như thế. Tôi cảm thấy thích thú về cái buổi tối vui vẻ bất ngờ này và để cho anh ta thù tạc cho mình một cách thoải mái với rượu vang hảo hạng mà không khiển trách khuyến dụ anh ta. Tôi đã biết những sắc thái này đối với anh nó hiếm hoi là dường nào, và anh ta đã vui vẻ và bám sát vào nó khi nó đến với anh một cách ngẫu nhiên như thế nào, và những sắc thái đó không bao giờ nó đến mà không có sự hỗ trợ của rượu vang. Tôi cũng biết rằng cái sắc thái tính khí này sẽ không kéo dài và vào ngày mai anh ta lại sẽ cau có bực bội và khó làm thân được . Dầu vậy nó đã đem đến cho tôi một cảm giác hạnh phúc và gần như hoan hỉ để lắng nghe những nhận xét thông minh, thâm trầm, dù rằng có lẽ là mâu thuẫn của anh ta. Trong khi nói chuyện, một cách ngẫu nhiên anh hướng đến tôi một trong những cái thoáng nhìn quyến rũ của anh ta, mà anh ta chỉ làm thế vào những giờ như những giờ này mà thôi, và những cái thoáng nhìn ấy hệt như những cái thoáng nhìn của một người vừa mới thức giấc từ một giấc mơ. Một lúc sau, khi anh ta ngồi im lặng và nghĩ ngợi, tôi bắt đầu nói với anh ta những gì mà ông bạn thông thiên học của tôi đã nói với tôi về sự bệnh hoạn của con người cô đơn. - Ồ - anh ta nói trong trạng thái vui vẻ - và tôi thiết tưởng anh tin ở ông ta. Anh sẽ trở nên một nhà thần học. - Do đâu anh nói đến điều đó? Dù sao, có thể có một cái gì trong câu nói ấy mà. - Ồ, cố nhiên rồi. Những người minh triết cứ không ngớt đôi khi chứng minh rằng mọi sự chỉ là tưởng tượng. Anh biết không, tôi thường hay đọc những cuốn sách như thế trong quá khứ và tôi có thể nói với anh rằng chúng là vô ích, tuyệt đối vô ích. Tất cả các điều mà các triết gia này viết ra đó chỉ là một trò đùa, có lẽ họ an ủi mình với cái đó. Một triết gia giảng dạy về chủ nghĩa cá nhân bởi vì ông ta không thể chịu nổi các người đương thời với ông ta, và người khác thuyết giảng về chủ nghĩa xã hội bởi vì ông ta không thể chịu đựng sự cô đơn trơ trọi. Có thể rằng cảm giác của chúng ta về nỗi cô đơn là một bệnh hoạn, song ta không thể làm bất cứ điều gì về cái đó cả. Chứng thuỵ du cũng là một bệnh hoạn, và đó là do đâu một người khốn khổ ở chứng đó đang đứng thực sự trên mái ngói, và khi một người nào đó gọi y, thì y ngã nhào và gãy cổ. - Việc đó hoàn toàn khác hẳn. - Có thể. Tôi sẽ không nói là tôi đúng. Tôi chỉ định nói rằng ta không đạt được bất kỳ nơi nào với sự khôn ngoan đó. Chỉ có hai loại minh triết, tất cả cái còn lại chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. - Hai loại minh triết anh định nói đến là hai loại nào vậy? - Vâng, đó là cuộc đời là xấu xa hoặc vô nghĩa, cũng như thuyết giáo của Phật giáo và Ki tô giáo, trong mỗi trường hợp ta phải khổ hạnh và chối bỏ tất cả mọi sự - tôi tin ta có thể đạt đến sự thanh thản trí óc trong phương thức này – các nhà khắc kỷ không có một cuộc sống khổ nhọc như thiên hạ tưởng đâu. Hoặc khác nữa là cuộc đời và đời sống là tốt đẹp và chí lý – bấy giờ ta có thể chỉ dự phần trong đó thôi và sau đấy vĩnh biệt trần gian một cách ung dung, thư thái, bởi vì nó đã chấm hết. - Chính anh thì anh tin ở điều nào? - Không ích gì đặt câu hỏi đó. Hầu hết thiên hạ đều tin cả hai, tuỳ thuộc vào thời tiết khí hậu, sức khoẻ của họ, và việc phải chăng họ có tiền trong bóp của họ hay không. Và đối với những người thực sự tin tưởng đó cũng không sống phù hợp với những tín ngưỡng của họ. Điều đó cũng có ra sao với tôi nữa. Chẳng hạn, tôi tin như Đức Phật rằng đời sống là phù du vô thường, nhưng tôi sống cho những điều mà nó hấp dẫn lương tri của tôi như thể đây là điều quan trọng nhất để làm nếu chỉ để được thoả mãn hơn thôi! Lúc ấy hãy chưa khuya lắm khi chúng tôi chấm dứt câu chuyện. Khi chúng tôi đi sang phòng kế bên , nơi đây chỉ có một bóng đèn duy nhất được thắp lên, Muoth nắm lấy tay tôi và dừng tôi lại, vặn lên tất cả các ngọn đèn và lấy đi tấm màn che ở bức chân dung của Gertrude, dựng tại đấy. Một lần nữa chúng tôi nhìn vào cái gương mặt thân yêu dịu dàng đó, rồi anh ta lại phủ tấm màn lên bức chân dung và tắt hết các ngọn đèn. Anh ta đi với tôi về phòng tôi và để vài tờ tạp chí trên bàn trong trường hợp tôi sẽ cần đọc. Đoạn anh ta bắt tay tôi và nói một cách nhỏ nhẹ: - Xin chúc ngủ ngon, ông bạn thân quý! Tôi lên giường ngủ và nằm đó thức khoảng nửa giờ, nghĩ ngợi về anh. Điều làm tôi xúc động và khiến tôi cảm thấy hổ thẹn khi nghe anh ta nhớ lại một cách trung thành tất cả những biến cố nhỏ nhặt của tình bạn của chúng tôi như thế nào. Anh ta, người đã nhận thấy khó khăn để kéo dài mối tình bạn đó, đã bám vào những kẻ mà anh quan tâm đến một cách nồng nàn nhiệt thành hơn là tôi tưởng. Sau đó tôi ngủ được và đã có những giấc mơ lẫn lộn về Muoth, về vở đại nhạc kịch của tôi và về ông Lohe. Khi tôi thức dậy, thì trời vẫn còn tối. Tôi đã thức giấc mơ của tôi. Tôi thấy cái buổi rạng đông xám xịt khô khan đang dần đến đóng khung bởi cánh cửa sổ và đã có một cảm giác thống khổ sâu đậm. Tôi ngồi dậy và cố phá tan giấc ngủ của tôi để nghĩ ngợi một cách rõ ràng hơn. Lúc bấy giờ có những tiếng gõ mạnh khẩn cấp ở cánh cửa phòng tôi. Tôi nhảy ra khỏi giọng và mở cửa ra. Trời thì lạnh lẽo và tôi hãy chưa vặn đèn lên. Người giúp việc đứng bên ngoài, ăn mặc một cách cẩu thả, và trừng trừng nhìn tôi một cách đầy lo lắng ái ngại với cặp mắt đầy khủng khiếp. - Ông sẽ vui lòng đến được chăng? – y thì thào, thở hổn hển – Có tai biến rồi. Tôi khoác chiếc áo thụng vào và đi theo người thanh niên xuống cầu thang. Y mở cửa ra, đứng ở sau và để tôi bước vào. Trong phòng có một cái bàn mây nhỏ với cái giá cắm nến trên đó có ba ngọn nến lớn đang cháy. Bên cạnh bàn là một cái giọng bừa bãi hỗn độn và trên đó, một người đàn ông đang nằm sấp, đó là bạn tôi Heinrich Muoth. - Chúng ta nên trở anh ta lại – tôi nói nho nhỏ. Người giúp việc không tin cậy ở mình để làm việc đó. - Tôi sẽ đi tìm bác sĩ ngay – hắn nói lắp bắp. Nhưng tôi đã bắt buộc hắn lật anh ta lại và chúng tôi đã lật người đàn ông nằm sấp đó lại. Tôi nhìn vào gương mặt bạn tôi, nó trắng bệch và méo mó. Áo sơ mi anh ta ướt đẫm máu, và khi chúng tôi để anh ta nằm xuống và đắp anh ta lại thì cái miệng anh ta giựt giựt và cặp mắt anh ta không còn nhìn thấy nữa. Bấy giờ người giúp việc bắt đầu kể với tôi cách kích thích những gì đã xảy ra nhưng tôi không muốn biết bất kỳ điều gì nữa. Khi viên bác sĩ đến thì Muoth đã chết. Buổi sáng tôi đi đánh điện tín cho Imthor. Rồi trở về với ngôi nhà im lặng đó, ngồi bên giường người quá cố, lắng nghe gió thổi trên hàng cây bên ngoài, và chỉ lúc đó tôi mới nhận ra tôi đã yêu quý con người bất hạnh này biết chừng nào. Tôi không thể nào khóc than cho anh ta, cái chết của anh ta dễ chịu hơn là đời sống của anh. Buổi tối tôi đứng ở nhà ga và thấy ông cụ Imthor bước ra khỏi chiếc xe lửa, tiếp theo là một người đàn bà cao ráo vận y phục đen. Tôi đưa họ trở về với tôi tới nhà người quá cố, hiện giờ đã được tẩm liệm và chiếc quan tài của anh ta được đặt giữa những bông hoa của ngày hôm trước. Gertrude đã cúi xuống và hôn lên đôi môi nhợt nhạt của anh ta. Khi chúng tôi đứng bên cạnh mộ chí của anh ta, tôi thấy một người đàn bà cao ráo quyến rũ với một gương mặt đầm đìa nước mắt, nàng cầm mấy cái hoa hồng trong tay và đứng trơ trọi một mình, và khi tôi nhìn ngang qua nàng một cách hiếu kỳ tôi tôi nhận ra đó là Lottie. Nàng gật đầu với tôi và mỉm cười. Nhưng Gertrude thì không khóc than gì cả, nàng đứng nhìn thẳng trước mặt nàng, một cách chăm chú và quả quyết, và giữ cho mình giống như một thân cây trẻ trung được chống đỡ bởi những cái rễ rắn chắc. nhưng đấy chỉ là sự tự chế mà thôi, hai ngày sau đó, khi nàng tháo mở những bó hoa của Muoth ra, nó đã đến nhà nàng giữa khi ấy, thì nàng đã ngã quỵ và chúng tôi đã không gặp nàng trong một thời gian dài.