Khu vườn mùa hạ
Chương 4
Mùa hè đã bắt đầu. Sáng sáng, chúng tôi leo lên xe buýt đi tới lớp học thêm. Lớp học thêm bắt đầu sớm hơn ở trường, thành thử đứa nào cũng càu nhàu. Đến đó rồi, trước tiên mọi người phải tập thể dục theo đài rồi mới bắt đầu học.
Phải đi qua nhà ông cụ mới đến được bến xe buýt. Vì trường học nằm ngược phía với nhà ông cụ, thế nên lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy nhà ông cụ vào buổi sáng mùa hè. Buổi sáng, ti vi không bật, cũng không thấy cái đầu hói của cụ. Chắc chắn ông còn đang ngủ. Tôi phát hiện ra rằng chuyện người già thường dậy sớm chỉ là nói dối mà thôi.
Trên cây gạo trong vườn nhà ông cụ, có rất nhiều chim sẻ đang đậu kêu lích rích. Dưới ánh nắng sớm chiếu chênh chếch, ngay cả khu vườn bừa bãi đầy túi rác bị mèo hoang cào rách và vỏ cơm hộp bằng nhựa nằm chỏng chơ... cũng không thể nói là không đẹp.
Có lẽ ông cụ toàn ngủ dậy muộn nên lỡ giờ vứt rác. Nghĩ vậy tôi kiên quyết bước tới cổng, xắn tay gom những túi rác bị quăng ra đó. Hôm nay là thứ hai. Tôi chỉ việc mang mấy túi rác này đến cột điện cách đây mười mét là được. Tôi vừa nhấc túi rác lên thì nghe có tiếng mèo hoang vang lên phản đối. Mùi chua bốc lên. Cố kìm cảm giác muốn phát ọe, tôi dọa lũ mèo. “Suỵt! Im đi! ” Sao lại có mùi hôi thế này được nhỉ? Câu trả lời là do đồ ăn thối rữa gây nên. Chuối, cơm hộp hay cả đồ hộp nữa, vốn dĩ rất ngon, nhưng khi đã thối rữa thì đều tỏa ra thứ mùi kinh tởm này. Không hiểu sao tôi thấy điều này thật bí ẩn. Thối rữa chẳng qua chỉ là kết quả của quá trình biến đổi. Thịt hầm tỏa ra mùi thơm cũng là do biến đổi, đồ ăn thối cũng là do biến đổi. Nhưng tôi lại cảm thấy thứ này có “mùi thơm”, thứ kia có “mùi thối”. Phải chăng sự biến đổi cũng có “biến đổi tốt” và “biến đổi xấu”. Chân tay tôi dài lòng khòng ra thế này, chắc hẳn là “biến đổi xấu” rồi.
Tôi hít một hơi đầy mùi rác. Cảm giác buồn nôn dâng lên, nước mắt tôi trào ra, đúng lúc đó có tiếng nói vang lên sau lưng tôi.
“Kiyama! Mày đang làm gì đấy?”
Là Wakabe và Yamashita. Hai đứa chỉ thò mỗi mặt ra phía trên bức tường.
“Tao định dọn rác.”
“Rác?” Yamashita tròn xoe mắt.
“Mày đang nghĩ gì thế hả?” Wakabe nói. “Ra đây nhanh lên!”
“Chúng mày giúp tao với. Một mình tao không mang ra hết được.”
“Mày có phải đứa ngốc không?”
“Ông cụ vẫn đang ngủ mà.”
“Tại sao bọn tao lại phải dọn rác hả?”
“Lúc theo dõi tụi mày không thấy thối à? Hồi trước mày chẳng kêu có mùi thối còn gì?”
“Thế nên tao mới hỏi mày bị làm sao?”
“Vào giúp tao đi.”
Hai đứa miễn cưỡng chui vào trong sân. Mấy con mèo hoang lởn vởn lại gần, bị Wakabe đạp trúng chân liền gào lên.
“Oái!”
“Yamashita! Yên đi!”
Tôi nhanh chóng chuyển túi rác cho hai đứa đang đứng lo lắng.
“Thối thế!” Wakabe nhăn mặt.
“Đến giấy báo cũng mủn ra rồi. Kinh quá!” Yamashita tự mình xách thêm một túi.
“Nhưng mà làm thế này cũng được. Tụi mình đang canh chừng ông ấy mà.” Wakabe triết lý, ‘“Hai tay hai bông hoa, không, hai túi rác chứ!”
“Nào, xách ra thôi!”
Tôi vừa nói xong, cánh cửa liền bật mở, tạo ra một tiếng kẹt rõ to. Theo phản xạ tôi quay lại, trán đập ngay vào cánh cửa.
“Chúng mày đang làm gì thế hả?”
Trong phút chốc, mắt tôi hoa lên, không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra, tôi cứ đứng ngây ra đó.
“Chúng mày đang làm gì thế hả?”
Ông cụ trong chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ và cái quần mặc ở nhà đang đứng trước mặt tôi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông cụ gần như vậy. Khuôn mặt của ông cụ giống như một hạt đậu có điểm hai chấm đen làm mắt. Trái với giọng nói đáng sợ, đôi mắt ông lại đảo nhanh một cách căng thẳng. Hàm răng vàng ngả màu trà. Hàm dưới chẳng thấy đâu, chỉ còn mỗi hai răng cửa ở chính giữa. Hàm trên cũng mất chiếc răng nanh phía bên phải. Đầu ông cụ hói bóng loáng, trái ngược hẳn với nửa dưới khuôn mặt được bao phủ bởi hàm râu trắng điểm những sợi đen lởm chởm. Tôi cứ ngẩn ra nhìn như thể bị hút vào đó. Bắt gặp ánh mắt của ông cụ, tôi giật mình.
“Rác...” Cuối cùng tôi cũng nói được.
“Rác?” Ông cụ nhắc lại lần nữa, nhìn tôi chòng chọc. Wakabe và Yamashita, hai đứa mỗi tay xách một túi rác cũng đờ ra đó như bị đông cứng.
“Bọn cháu nghĩ là nên dọn rác đi thì hơn.”
“Chúng mày đừng quanh quẩn ở đây nữa!”
Tôi cảm thấy đau nhói. “Không ạ... chỉ là...”
“Chỉ là cái gì?”
Tệ thật! Mình nói thêm “chỉ là” làm gì cơ chứ. Làm sao dám nói rằng: Tụi cháu chỉ định theo dõi xem ông chết thế nào thôi.
“Bọn cháu chỉ định mang rác ra thôi!” Tôi lí nhí phân bua.
“Đồ dối trá!”
Ông cụ nói lầm bầm. “Tao đã để mắt đến lũ chúng mày rồi đấy!”
Câu nói đó làm chúng tôi cảm thấy bị tổn thương. Ít ra thì hiện giờ chúng tôi cũng thực sự có ý định mang rác ra. Tôi muốn giải thích để ông cụ hiểu được điều đó nhưng không rõ vì sao bỗng cảm thấy xấu hổ nên đành im lặng. Tôi đã nghĩ vậy nên mới im lặng, nhưng trên đời cũng có những kẻ chả thèm suy nghĩ gì nhiều.
“Ý ông nói là bọn tôi sẽ làm gì đó xấu xa hả?” Wakabe nói.
“Thôi đi!” Yamashita nói.
Ông cụ hầm hừ, định đóng cửa.
“Đợi đã. Ông định bảo chúng tôi là lũ ăn trộm hả?”
“Wakabe, thôi đi!” Tôi nắm lấy vai Wakabe lúc này đang bắt đầu điên tiết.
Ông cụ lại mở cửa ra lần nữa.
“Thái độ gì thế hả? Chúng mày tự tiện vào nhà người khác để làm cái gì?”
“Xin lỗi... bọn cháu...” Yamashita cuống quýt xin lỗi nhưng ông cụ không thèm để ý, gườm gườm nhìn Wakabe.
“Thật không ra làm sao cả! Tao muốn biết xem mặt mũi bố mẹ chúng mày thế nào đấy!”
Nguy rồi, tôi nghĩ. Hễ bị nói động đến chuyện bố mẹ, Wakabe lại có những phản ứng rất mãnh liệt. Đúng như tôi đoán, nó lại bắt đầu rung đùi.
“Bố tôi... bố tôi... là lính cứu hỏa. Ông ấy chết khi giải cứu những người không kịp thoát khỏi đám cháy. Ông ấy là người vô cùng dũng cảm.”
Ông cụ đóng sầm lại.
“Này! Đợi đã! Ông không định nghe chuyện chúng tôi hử? Ông ra đây!” Wakabe gào to về phía cánh cửa. Đến mức này thì tôi và Yamashita đều chẳng có cách nào ngăn nổi nó.
“Chết tiệt! Ông già kia, ông nghe cho rõ đây. Chúng tôi đang theo dõi ông đấy. Vì ông sắp chết nên chúng tôi mới theo dõi ông đấy. Tôi sẽ xem xem ông chết như thế nào. Chắc chắn đấy!”
* * *
Tôi và Yamashita gắng hết sức mới kéo được Wakabe đang điên tiết ra ngoài đường. Wakabe đột nhiên cũng ỉu xìu hẳn, im lặng đi. Rốt cuộc chúng tôi phải bỏ mấy túi rác lại.
Ngay cả trong lớp học thêm, chúng tôi cũng chẳng nói gì với nhau. Lúc làm bài kiểm tra ngắn trong giờ toán, tôi lơ đễnh ngắm quanh lớp học. Lưng của Yamashita ngồi phía trước trông tròn nung núc, cái bút chì của nó hầu như không thấy chuyển động mấy, Wakabe ngồi bên cạnh thì cứ liên tục làm gãy ngòi chì. Bao phủ bởi tiếng bút chì sột soạt, tiếng thở nhẹ cùng tiếng kêu ro ro khe khẽ của máy điều hòa, căn phòng cơ hồ như đang chìm dưới đáy nước.
Tiếng bước chân đầy vẻ canh chừng ngừng lại bên bàn tôi. Thầy giáo đang nhìn vào tờ đáp án tôi làm. Tôi hoảng hồn che tờ giấy lại.
Ở phía bên kia cánh cửa, liệu ông cụ có nghe thấy tiếng la hét của Wakabe? Tôi không sao quên được cặp mắt của ông cụ lúc nhìn gần. Đó không phải là một cặp mắt bí hiểm cũng chẳng có vẻ gì gian giảo, nhưng không hiểu sao nó cứ làm tôi nhớ đến cặp mắt của con chó nhà tôi đã từng nuôi.
Con chó đó rất già, đến mức nó còn chẳng buồn đi dạo, cứ nằm ngủ suốt ở một góc sân, phân vẫn còn dính ở đít. Trước khi tôi ra đời, lúc mới chỉ có bố và mẹ tôi, hai người thường đưa nó ra bờ sông chơi. Tôi khó có thể tin rằng nó đã có lúc vui mừng và phấn khích vì gió sông đến mức vãi tè ra đường. Đối với tôi, con chó đó chỉ giống như một tấm lông cũ bẩn. Thỉnh thoảng có ai đến thăm, cùng lắm nó cũng chỉ vẫy đuôi, thế nên mỗi khi tôi lại gần, nó lại quay đi ra vẻ bị làm phiền. Một ngày nọ, bác sĩ thú y đến tiêm cho nó một mũi. Mẹ nói, “Đến mai Chiro sẽ chết!”
Tối hôm đó, tôi đã ngồi bên cạnh nó một lúc lâu. Con chó không lờ tôi đi, cứ ngước lên nhìn bằng đôi mắt to đen. Nó có vẻ lo sợ. Và tôi hiểu được nỗi lo sợ đó. Bởi vì tôi cũng cảm thấy bất an. Lúc mẹ bắt đi ngủ, tôi òa khóc, bị xâm chiếm bởi một cảm xúc không thể hiểu nổi, giống như khi có một thứ gì đó rất quan trọng bỏ mình mà đi.
Ngày hôm sau, con chó được đặt vào một cái hộp các tông. Bố cấm tôi nhìn vào trong. Tôi cũng không hiểu tại sao lúc đó mình lại rất muốn ngó vào. Nó được đem chôn nguyên với cái thùng. Cho đến giờ, cứ mỗi lần nhớ lại đôi mắt của con chó đêm hôm ấy, tôi vẫn bị ám ảnh bởi nỗi bất an như khi chứng kiến cảnh dó.
* * *
Lớp học thêm kết thúc vào tầm trưa. Chúng tôi ngồi trên ghế đợi của bến xe buýt, im lặng ăn bánh mì. Lần đầu tiên Yamashita kể về đám tang của bà nó cũng là tại chiếc ghế này.
“Hôm nay mình đi bơi đi!” Yamashita hết chịu nổi sự im lặng liền nói. Hôm nay là ngày bể bơi ở trường mở cửa.
“Hay đấy!” Tôi tán thành.
“Ừ. Mình đi nhé?”
Wakabe nãy giờ chỉ ngồi ra sức nhét bánh mì vào mồm. “Tao không đi đâu!” Sau khi ăn hết cái bánh mì nó nói bằng giọng u ám.
“Mình đừng nên theo dõi ông cụ ấy nữa.” Yamashita nói với vẻ tội nghiệp. “Nhất là ông ấy trông chẳng có vẻ gì sắp chết cả.”
Wakabe nghe vậy, dán mắt nhìn xuống đất. Tôi và Yamashita nhìn nhau. Nhớ lại câu phát ngôn về vụ cho độc vào gói cá của Wakabe, tôi thấy hơi lo.
Wakabe tống nốt cái bánh cà ri thứ hai vào mồm rồi đứng dậy. Bó tay với nó. Tôi và Yamashita chuẩn bị tinh thần sẽ lại phải đi với nó. Nếu để mặc Wakabe một mình, chẳng biết nó sẽ làm cái gì nữa.
* * *
Cái cửa sổ to ở phía thềm nhà của ông cụ vẫn đóng chặt ngay cả khi trời nóng. Có một lần, cánh cửa cọt kẹt mở và chúng tôi thấy được phần đầu hói của ông cụ nhô ra, nhưng ngay khi nhận ra chúng tôi, ông liền đóng sập cửa lại. Ngày tiếp theo cánh cửa lại cọt kẹt mở ra, ông cụ đi, hất nguyên một xô nước về phía ba đứa. Nước chỉ đập được vào bức tường đánh rào một cái.
“Tiếc thế!” Wakabe đắc thắng.
Chúng tôi lại bám đu ông cụ như trước. Nhưng kiểu bám đuôi của chúng tôi không thể gọi là bí mật theo dõi nữa. Wakabe cứ lườm lườm nhìn lưng ông cụ, nhanh nhẹn đi theo. Chúng tôi cũng không nấp nữa. Hễ ông cụ đột ngột ngoái lại, ba đứa cùng dừng khựng luôn. “Cứ như đang chơi trò lật đật ấy!” Yamashita cười ngây ngô nói, nhưng Wakabe hoàn toàn không hưởng ứng nên nó lại im lặng.
Không hiểu tại sao, độ này ông cụ khó ăn uống hơn, ngày nào cũng đi chợ. Ông không chỉ ghé vào cửa hàng tiện lợi mà còn ghé vào cả hàng rau để mua ít rau, vào hàng cá mua gỏi cá.
“Gỏi cá của hàng đấy ngon ra phết!” Yamashita nói. “Nhưng nếu ông cụ định mua gỏi cá, thì sao không mua ở hàng nhà tao cơ chứ!” Wakabe tặc lưỡi. “Đúng là cứ nên đầu độc ông già chết tiệt đó đi cho rồi.”
* * *
Tại phố mua sắm buổi chiều. Chúng tôi lại mất dấu ông cụ. Ba đứa lại chia ra ba hướng như lần trước. Trong khi len lỏi giữa đám đông ở phố mua sắm, tôi gặp Wakabe.
“Tìm thấy chưa?”
Không, Wakabe lắc đầu, đi ngang hàng với tôi.
“Thể nào ông cụ chẳng quay về, mình đợi ở nhà ông ấy có được không?”
Wakabe không nói gì. Không khí oi bức. Trời sẩm tối rồi nên có lẽ ông cụ cũng sắp quay về. Ông cụ chắc chắn không mang theo ô đâu, tôi nghĩ vậy.
“Bố tao ấy.” Wakabe đột nhiên kể.
“Ừ?”
“Ông ấy chưa chết đâu.”
Tôi nhìn Wakabe. Nó nhìn thẳng vào những người khách đang qua lại ngược xuôi trong khu buôn bán.
“Ông ấy còn có con, nhưng không phải là tao. Đứa trẻ đó có mẹ, không phải là mẹ tao.”
Wakabe nói đến đây thì ngừng. “Chết đi!” Nó lẩm bẩm.
Không hiểu lời đó nó nói với những bà đang đi mua thức ăn, hay là với ông cụ, hoặc với bố nó, hay với bà mẹ và đứa trẻ kia.
“Tao đã nói dối. Xin lỗi!”
“Không sao.” Tôi không hề nghĩ rằng mình lại là người nhận lời xin lỗi của nó.
“Kiyama.” Yamashita vẫy vẫy tay. “Hướng này! Hướng này!”
Ông cụ đang đứng trước bưu điện. Dựa mình vào thùng thư, ông ngó nhìn xung quanh.
“Có phải ông ấy đang tìm ai không?”
Yamashita vừa thăm dò thái độ của ông cụ vừa nói.
“Ai là ai mới được?” Wakabe đang bước về phía ông cụ chợt dừng lại.
Ông cụ trông chẳng có vẻ đang đợi ai hết. Ông cụ ngó quanh một lần nữa, ánh mắt ông bắt gặp tôi. Liền đó, ông lại bắt đầu bước đi.
“Không lẽ...” Yamashita chạy từng đoạn ngắn, đuổi theo Wakabe, phấn khích nói. “Ông cụ đang đợi bọn mình?”
“Làm gì có chuyện đó! Ngốc quá!”
Không thể có chuyện đó được. Không thể có chuyện đó, nhưng mà... Yamashita nhìn tôi. “Ai mà biết được.” Tôi nghiêng đầu.
* * *
Ngày hôm sau. Dưới ánh nắng chói chang, ba đứa lại dựa vào tường như mọi khi. Đầu chúng tôi sắp bốc khói vì phơi dưới trời nắng, thế mà đợi mãi vẫn chẳng thấy ông cụ lại gần cửa sổ. Cũng không thấy ti vi bật. Chúng tôi nghĩ có thể ông cụ đi chợ sớm nên đã ngó nghiêng khắp góc rẽ ra khu mua sắm, nhưng chỉ thấy mỗi một cái ô tô đi đến.
“Biết đâu ông cụ ngã trong nhà...” Yamashita nói, vẻ lo lắng.
“Làm sao nhanh thế được. Hôm qua ông cụ còn khỏe thế cơ mà.” Tôi nói.
“Bà tao cũng thế mà. Hôm trước khi chết, bà tao vẫn còn ăn thêm cơm đấy.”
Hơn một tiếng đồng hồ sau, vẫn không hề có tiếng động nào phát ra từ ngôi nhà. Wakabe dẩu môi, nhìn về phía cửa sổ, rồi từ từ quay sang phía cửa ra vào, rồi lại nhìn cửa sổ. “Này, bình tĩnh đi.” Nói vậy nhưng giọng tôi nghe sao mà...
Lũ ve kêu ầm ĩ. Chắc chắn tụi nó đang đậu ngay ở cây gạo. Một chiếc ô tô vọt qua ngay sau lưng chúng tôi. Liền đó tiếng ve lại vang lên. “Tao...” Wakabe nói nhỏ. “Tao dễ nổi cáu lắm. Tao đã nói quá lời.”
Tôi muốn nói với nó rằng đừng để ý đến chuyện đó, nhưng mấy từ đó cứ tắc lại trong cổ. Bảo nó đừng áy náy có lẽ còn khó hơn.
“Từ nhỏ mắt tao đã kém rồi, thế nên tao nóng tính lắm.”
“Nóng tính với mắt kém có liên quan gì đâu?”
“Đáng lẽ tao phải xin lỗi ông ấy.” Mặt Wakabe nhăn nhúm lại. “Hay mình gõ cửa thử xem?” Yamashita run run nói. Vừa lúc đó cánh cửa sổ lạch cạch mở ra chừng mười lăm phân. Chúng tôi nín thở nhìn về phía đó. Cánh tay gầy guộc nhăn nheo đúng là của ông cụ run run hiện ra. Trông chẳng khác gì cánh tay của xác chết sống lại thò lên từ dưới mộ.
“Làm thế nào bây giờ? Này, làm thế nào bây giờ? Ông ấy chắc chắn sắp chết rồi!” Yamashita vẫn đang đứng kiễng chân, luống cuống nói.
“Làm thế nào là sao?”
“Làm gì đó chứ sao nữa? Này, mình phải làm gì đấy đi chứ!”
Wakabe cứng đơ người, mắt mở to, từ cổ họng nó phát ra những âm ru ru quái dị.
“Wakabe!”
Không biết nên nhìn bàn tay xác chết sống lại kia hay nhìn Wakabe lúc này trông như sắp sùi bọt mép, cổ tôi cứ hết ngoái sang trái lại ngoái sang phải hệt như một con gà.
“Ủa?”
Đột nhiên, bàn tay của ông cụ ngừng cử động. Tôi vừa nghĩ vậy, thì bỗng thấy ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay ấy giơ lên. Thành hình chữ V hướng về phía chúng lôi.
* * *
“Chết tiệt! Ồng ta muốn giỡn mặt tụi mình!”
Wakabe cáu đến mức đầu như sắp bốc khói.
“Ông ta đang trêu chọc mình!” Tôi đã thực sự lo lắng cho ông cụ nên cũng đâm bực ghê gớm.
“Bọn mình bị ông ấy chơi rồi!” Yamashita mang vẻ mặt nửa cười nửa mếu.
“Lắm mồm!”
Wakabe phăng phăng bước đi, chẳng thèm sửa cặp kính đang trễ xuống. Tôi và Yamashita chạy đuổi theo sau.
“Đó chắc chắn là lời tuyên chiến với bọn mình!” Wakabe đột nhiên đứng khựng, quay phắt lại.
“Được rồi. Tao nhất quyết tiếp tục theo dõi ông ấy! Dẫu chúng mày có phản đối, tao vẫn sẽ làm một mình.”
“Được!” Tôi nói. “Đã thế này thì phải làm đến cùng!”
Bao nhiêu cảm giác hối lỗi trong tôi đã tiêu tán sạch. Phía bên kia đã thế thì ta cũng làm luôn.
“Đúng là lì lợm!” Yamashita nói.
Cũng có thể nói như vậy. Ông già đó có giết cũng chẳng chết được đâu.
Phải đi qua nhà ông cụ mới đến được bến xe buýt. Vì trường học nằm ngược phía với nhà ông cụ, thế nên lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy nhà ông cụ vào buổi sáng mùa hè. Buổi sáng, ti vi không bật, cũng không thấy cái đầu hói của cụ. Chắc chắn ông còn đang ngủ. Tôi phát hiện ra rằng chuyện người già thường dậy sớm chỉ là nói dối mà thôi.
Trên cây gạo trong vườn nhà ông cụ, có rất nhiều chim sẻ đang đậu kêu lích rích. Dưới ánh nắng sớm chiếu chênh chếch, ngay cả khu vườn bừa bãi đầy túi rác bị mèo hoang cào rách và vỏ cơm hộp bằng nhựa nằm chỏng chơ... cũng không thể nói là không đẹp.
Có lẽ ông cụ toàn ngủ dậy muộn nên lỡ giờ vứt rác. Nghĩ vậy tôi kiên quyết bước tới cổng, xắn tay gom những túi rác bị quăng ra đó. Hôm nay là thứ hai. Tôi chỉ việc mang mấy túi rác này đến cột điện cách đây mười mét là được. Tôi vừa nhấc túi rác lên thì nghe có tiếng mèo hoang vang lên phản đối. Mùi chua bốc lên. Cố kìm cảm giác muốn phát ọe, tôi dọa lũ mèo. “Suỵt! Im đi! ” Sao lại có mùi hôi thế này được nhỉ? Câu trả lời là do đồ ăn thối rữa gây nên. Chuối, cơm hộp hay cả đồ hộp nữa, vốn dĩ rất ngon, nhưng khi đã thối rữa thì đều tỏa ra thứ mùi kinh tởm này. Không hiểu sao tôi thấy điều này thật bí ẩn. Thối rữa chẳng qua chỉ là kết quả của quá trình biến đổi. Thịt hầm tỏa ra mùi thơm cũng là do biến đổi, đồ ăn thối cũng là do biến đổi. Nhưng tôi lại cảm thấy thứ này có “mùi thơm”, thứ kia có “mùi thối”. Phải chăng sự biến đổi cũng có “biến đổi tốt” và “biến đổi xấu”. Chân tay tôi dài lòng khòng ra thế này, chắc hẳn là “biến đổi xấu” rồi.
Tôi hít một hơi đầy mùi rác. Cảm giác buồn nôn dâng lên, nước mắt tôi trào ra, đúng lúc đó có tiếng nói vang lên sau lưng tôi.
“Kiyama! Mày đang làm gì đấy?”
Là Wakabe và Yamashita. Hai đứa chỉ thò mỗi mặt ra phía trên bức tường.
“Tao định dọn rác.”
“Rác?” Yamashita tròn xoe mắt.
“Mày đang nghĩ gì thế hả?” Wakabe nói. “Ra đây nhanh lên!”
“Chúng mày giúp tao với. Một mình tao không mang ra hết được.”
“Mày có phải đứa ngốc không?”
“Ông cụ vẫn đang ngủ mà.”
“Tại sao bọn tao lại phải dọn rác hả?”
“Lúc theo dõi tụi mày không thấy thối à? Hồi trước mày chẳng kêu có mùi thối còn gì?”
“Thế nên tao mới hỏi mày bị làm sao?”
“Vào giúp tao đi.”
Hai đứa miễn cưỡng chui vào trong sân. Mấy con mèo hoang lởn vởn lại gần, bị Wakabe đạp trúng chân liền gào lên.
“Oái!”
“Yamashita! Yên đi!”
Tôi nhanh chóng chuyển túi rác cho hai đứa đang đứng lo lắng.
“Thối thế!” Wakabe nhăn mặt.
“Đến giấy báo cũng mủn ra rồi. Kinh quá!” Yamashita tự mình xách thêm một túi.
“Nhưng mà làm thế này cũng được. Tụi mình đang canh chừng ông ấy mà.” Wakabe triết lý, ‘“Hai tay hai bông hoa, không, hai túi rác chứ!”
“Nào, xách ra thôi!”
Tôi vừa nói xong, cánh cửa liền bật mở, tạo ra một tiếng kẹt rõ to. Theo phản xạ tôi quay lại, trán đập ngay vào cánh cửa.
“Chúng mày đang làm gì thế hả?”
Trong phút chốc, mắt tôi hoa lên, không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra, tôi cứ đứng ngây ra đó.
“Chúng mày đang làm gì thế hả?”
Ông cụ trong chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ và cái quần mặc ở nhà đang đứng trước mặt tôi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông cụ gần như vậy. Khuôn mặt của ông cụ giống như một hạt đậu có điểm hai chấm đen làm mắt. Trái với giọng nói đáng sợ, đôi mắt ông lại đảo nhanh một cách căng thẳng. Hàm răng vàng ngả màu trà. Hàm dưới chẳng thấy đâu, chỉ còn mỗi hai răng cửa ở chính giữa. Hàm trên cũng mất chiếc răng nanh phía bên phải. Đầu ông cụ hói bóng loáng, trái ngược hẳn với nửa dưới khuôn mặt được bao phủ bởi hàm râu trắng điểm những sợi đen lởm chởm. Tôi cứ ngẩn ra nhìn như thể bị hút vào đó. Bắt gặp ánh mắt của ông cụ, tôi giật mình.
“Rác...” Cuối cùng tôi cũng nói được.
“Rác?” Ông cụ nhắc lại lần nữa, nhìn tôi chòng chọc. Wakabe và Yamashita, hai đứa mỗi tay xách một túi rác cũng đờ ra đó như bị đông cứng.
“Bọn cháu nghĩ là nên dọn rác đi thì hơn.”
“Chúng mày đừng quanh quẩn ở đây nữa!”
Tôi cảm thấy đau nhói. “Không ạ... chỉ là...”
“Chỉ là cái gì?”
Tệ thật! Mình nói thêm “chỉ là” làm gì cơ chứ. Làm sao dám nói rằng: Tụi cháu chỉ định theo dõi xem ông chết thế nào thôi.
“Bọn cháu chỉ định mang rác ra thôi!” Tôi lí nhí phân bua.
“Đồ dối trá!”
Ông cụ nói lầm bầm. “Tao đã để mắt đến lũ chúng mày rồi đấy!”
Câu nói đó làm chúng tôi cảm thấy bị tổn thương. Ít ra thì hiện giờ chúng tôi cũng thực sự có ý định mang rác ra. Tôi muốn giải thích để ông cụ hiểu được điều đó nhưng không rõ vì sao bỗng cảm thấy xấu hổ nên đành im lặng. Tôi đã nghĩ vậy nên mới im lặng, nhưng trên đời cũng có những kẻ chả thèm suy nghĩ gì nhiều.
“Ý ông nói là bọn tôi sẽ làm gì đó xấu xa hả?” Wakabe nói.
“Thôi đi!” Yamashita nói.
Ông cụ hầm hừ, định đóng cửa.
“Đợi đã. Ông định bảo chúng tôi là lũ ăn trộm hả?”
“Wakabe, thôi đi!” Tôi nắm lấy vai Wakabe lúc này đang bắt đầu điên tiết.
Ông cụ lại mở cửa ra lần nữa.
“Thái độ gì thế hả? Chúng mày tự tiện vào nhà người khác để làm cái gì?”
“Xin lỗi... bọn cháu...” Yamashita cuống quýt xin lỗi nhưng ông cụ không thèm để ý, gườm gườm nhìn Wakabe.
“Thật không ra làm sao cả! Tao muốn biết xem mặt mũi bố mẹ chúng mày thế nào đấy!”
Nguy rồi, tôi nghĩ. Hễ bị nói động đến chuyện bố mẹ, Wakabe lại có những phản ứng rất mãnh liệt. Đúng như tôi đoán, nó lại bắt đầu rung đùi.
“Bố tôi... bố tôi... là lính cứu hỏa. Ông ấy chết khi giải cứu những người không kịp thoát khỏi đám cháy. Ông ấy là người vô cùng dũng cảm.”
Ông cụ đóng sầm lại.
“Này! Đợi đã! Ông không định nghe chuyện chúng tôi hử? Ông ra đây!” Wakabe gào to về phía cánh cửa. Đến mức này thì tôi và Yamashita đều chẳng có cách nào ngăn nổi nó.
“Chết tiệt! Ông già kia, ông nghe cho rõ đây. Chúng tôi đang theo dõi ông đấy. Vì ông sắp chết nên chúng tôi mới theo dõi ông đấy. Tôi sẽ xem xem ông chết như thế nào. Chắc chắn đấy!”
* * *
Tôi và Yamashita gắng hết sức mới kéo được Wakabe đang điên tiết ra ngoài đường. Wakabe đột nhiên cũng ỉu xìu hẳn, im lặng đi. Rốt cuộc chúng tôi phải bỏ mấy túi rác lại.
Ngay cả trong lớp học thêm, chúng tôi cũng chẳng nói gì với nhau. Lúc làm bài kiểm tra ngắn trong giờ toán, tôi lơ đễnh ngắm quanh lớp học. Lưng của Yamashita ngồi phía trước trông tròn nung núc, cái bút chì của nó hầu như không thấy chuyển động mấy, Wakabe ngồi bên cạnh thì cứ liên tục làm gãy ngòi chì. Bao phủ bởi tiếng bút chì sột soạt, tiếng thở nhẹ cùng tiếng kêu ro ro khe khẽ của máy điều hòa, căn phòng cơ hồ như đang chìm dưới đáy nước.
Tiếng bước chân đầy vẻ canh chừng ngừng lại bên bàn tôi. Thầy giáo đang nhìn vào tờ đáp án tôi làm. Tôi hoảng hồn che tờ giấy lại.
Ở phía bên kia cánh cửa, liệu ông cụ có nghe thấy tiếng la hét của Wakabe? Tôi không sao quên được cặp mắt của ông cụ lúc nhìn gần. Đó không phải là một cặp mắt bí hiểm cũng chẳng có vẻ gì gian giảo, nhưng không hiểu sao nó cứ làm tôi nhớ đến cặp mắt của con chó nhà tôi đã từng nuôi.
Con chó đó rất già, đến mức nó còn chẳng buồn đi dạo, cứ nằm ngủ suốt ở một góc sân, phân vẫn còn dính ở đít. Trước khi tôi ra đời, lúc mới chỉ có bố và mẹ tôi, hai người thường đưa nó ra bờ sông chơi. Tôi khó có thể tin rằng nó đã có lúc vui mừng và phấn khích vì gió sông đến mức vãi tè ra đường. Đối với tôi, con chó đó chỉ giống như một tấm lông cũ bẩn. Thỉnh thoảng có ai đến thăm, cùng lắm nó cũng chỉ vẫy đuôi, thế nên mỗi khi tôi lại gần, nó lại quay đi ra vẻ bị làm phiền. Một ngày nọ, bác sĩ thú y đến tiêm cho nó một mũi. Mẹ nói, “Đến mai Chiro sẽ chết!”
Tối hôm đó, tôi đã ngồi bên cạnh nó một lúc lâu. Con chó không lờ tôi đi, cứ ngước lên nhìn bằng đôi mắt to đen. Nó có vẻ lo sợ. Và tôi hiểu được nỗi lo sợ đó. Bởi vì tôi cũng cảm thấy bất an. Lúc mẹ bắt đi ngủ, tôi òa khóc, bị xâm chiếm bởi một cảm xúc không thể hiểu nổi, giống như khi có một thứ gì đó rất quan trọng bỏ mình mà đi.
Ngày hôm sau, con chó được đặt vào một cái hộp các tông. Bố cấm tôi nhìn vào trong. Tôi cũng không hiểu tại sao lúc đó mình lại rất muốn ngó vào. Nó được đem chôn nguyên với cái thùng. Cho đến giờ, cứ mỗi lần nhớ lại đôi mắt của con chó đêm hôm ấy, tôi vẫn bị ám ảnh bởi nỗi bất an như khi chứng kiến cảnh dó.
* * *
Lớp học thêm kết thúc vào tầm trưa. Chúng tôi ngồi trên ghế đợi của bến xe buýt, im lặng ăn bánh mì. Lần đầu tiên Yamashita kể về đám tang của bà nó cũng là tại chiếc ghế này.
“Hôm nay mình đi bơi đi!” Yamashita hết chịu nổi sự im lặng liền nói. Hôm nay là ngày bể bơi ở trường mở cửa.
“Hay đấy!” Tôi tán thành.
“Ừ. Mình đi nhé?”
Wakabe nãy giờ chỉ ngồi ra sức nhét bánh mì vào mồm. “Tao không đi đâu!” Sau khi ăn hết cái bánh mì nó nói bằng giọng u ám.
“Mình đừng nên theo dõi ông cụ ấy nữa.” Yamashita nói với vẻ tội nghiệp. “Nhất là ông ấy trông chẳng có vẻ gì sắp chết cả.”
Wakabe nghe vậy, dán mắt nhìn xuống đất. Tôi và Yamashita nhìn nhau. Nhớ lại câu phát ngôn về vụ cho độc vào gói cá của Wakabe, tôi thấy hơi lo.
Wakabe tống nốt cái bánh cà ri thứ hai vào mồm rồi đứng dậy. Bó tay với nó. Tôi và Yamashita chuẩn bị tinh thần sẽ lại phải đi với nó. Nếu để mặc Wakabe một mình, chẳng biết nó sẽ làm cái gì nữa.
* * *
Cái cửa sổ to ở phía thềm nhà của ông cụ vẫn đóng chặt ngay cả khi trời nóng. Có một lần, cánh cửa cọt kẹt mở và chúng tôi thấy được phần đầu hói của ông cụ nhô ra, nhưng ngay khi nhận ra chúng tôi, ông liền đóng sập cửa lại. Ngày tiếp theo cánh cửa lại cọt kẹt mở ra, ông cụ đi, hất nguyên một xô nước về phía ba đứa. Nước chỉ đập được vào bức tường đánh rào một cái.
“Tiếc thế!” Wakabe đắc thắng.
Chúng tôi lại bám đu ông cụ như trước. Nhưng kiểu bám đuôi của chúng tôi không thể gọi là bí mật theo dõi nữa. Wakabe cứ lườm lườm nhìn lưng ông cụ, nhanh nhẹn đi theo. Chúng tôi cũng không nấp nữa. Hễ ông cụ đột ngột ngoái lại, ba đứa cùng dừng khựng luôn. “Cứ như đang chơi trò lật đật ấy!” Yamashita cười ngây ngô nói, nhưng Wakabe hoàn toàn không hưởng ứng nên nó lại im lặng.
Không hiểu tại sao, độ này ông cụ khó ăn uống hơn, ngày nào cũng đi chợ. Ông không chỉ ghé vào cửa hàng tiện lợi mà còn ghé vào cả hàng rau để mua ít rau, vào hàng cá mua gỏi cá.
“Gỏi cá của hàng đấy ngon ra phết!” Yamashita nói. “Nhưng nếu ông cụ định mua gỏi cá, thì sao không mua ở hàng nhà tao cơ chứ!” Wakabe tặc lưỡi. “Đúng là cứ nên đầu độc ông già chết tiệt đó đi cho rồi.”
* * *
Tại phố mua sắm buổi chiều. Chúng tôi lại mất dấu ông cụ. Ba đứa lại chia ra ba hướng như lần trước. Trong khi len lỏi giữa đám đông ở phố mua sắm, tôi gặp Wakabe.
“Tìm thấy chưa?”
Không, Wakabe lắc đầu, đi ngang hàng với tôi.
“Thể nào ông cụ chẳng quay về, mình đợi ở nhà ông ấy có được không?”
Wakabe không nói gì. Không khí oi bức. Trời sẩm tối rồi nên có lẽ ông cụ cũng sắp quay về. Ông cụ chắc chắn không mang theo ô đâu, tôi nghĩ vậy.
“Bố tao ấy.” Wakabe đột nhiên kể.
“Ừ?”
“Ông ấy chưa chết đâu.”
Tôi nhìn Wakabe. Nó nhìn thẳng vào những người khách đang qua lại ngược xuôi trong khu buôn bán.
“Ông ấy còn có con, nhưng không phải là tao. Đứa trẻ đó có mẹ, không phải là mẹ tao.”
Wakabe nói đến đây thì ngừng. “Chết đi!” Nó lẩm bẩm.
Không hiểu lời đó nó nói với những bà đang đi mua thức ăn, hay là với ông cụ, hoặc với bố nó, hay với bà mẹ và đứa trẻ kia.
“Tao đã nói dối. Xin lỗi!”
“Không sao.” Tôi không hề nghĩ rằng mình lại là người nhận lời xin lỗi của nó.
“Kiyama.” Yamashita vẫy vẫy tay. “Hướng này! Hướng này!”
Ông cụ đang đứng trước bưu điện. Dựa mình vào thùng thư, ông ngó nhìn xung quanh.
“Có phải ông ấy đang tìm ai không?”
Yamashita vừa thăm dò thái độ của ông cụ vừa nói.
“Ai là ai mới được?” Wakabe đang bước về phía ông cụ chợt dừng lại.
Ông cụ trông chẳng có vẻ đang đợi ai hết. Ông cụ ngó quanh một lần nữa, ánh mắt ông bắt gặp tôi. Liền đó, ông lại bắt đầu bước đi.
“Không lẽ...” Yamashita chạy từng đoạn ngắn, đuổi theo Wakabe, phấn khích nói. “Ông cụ đang đợi bọn mình?”
“Làm gì có chuyện đó! Ngốc quá!”
Không thể có chuyện đó được. Không thể có chuyện đó, nhưng mà... Yamashita nhìn tôi. “Ai mà biết được.” Tôi nghiêng đầu.
* * *
Ngày hôm sau. Dưới ánh nắng chói chang, ba đứa lại dựa vào tường như mọi khi. Đầu chúng tôi sắp bốc khói vì phơi dưới trời nắng, thế mà đợi mãi vẫn chẳng thấy ông cụ lại gần cửa sổ. Cũng không thấy ti vi bật. Chúng tôi nghĩ có thể ông cụ đi chợ sớm nên đã ngó nghiêng khắp góc rẽ ra khu mua sắm, nhưng chỉ thấy mỗi một cái ô tô đi đến.
“Biết đâu ông cụ ngã trong nhà...” Yamashita nói, vẻ lo lắng.
“Làm sao nhanh thế được. Hôm qua ông cụ còn khỏe thế cơ mà.” Tôi nói.
“Bà tao cũng thế mà. Hôm trước khi chết, bà tao vẫn còn ăn thêm cơm đấy.”
Hơn một tiếng đồng hồ sau, vẫn không hề có tiếng động nào phát ra từ ngôi nhà. Wakabe dẩu môi, nhìn về phía cửa sổ, rồi từ từ quay sang phía cửa ra vào, rồi lại nhìn cửa sổ. “Này, bình tĩnh đi.” Nói vậy nhưng giọng tôi nghe sao mà...
Lũ ve kêu ầm ĩ. Chắc chắn tụi nó đang đậu ngay ở cây gạo. Một chiếc ô tô vọt qua ngay sau lưng chúng tôi. Liền đó tiếng ve lại vang lên. “Tao...” Wakabe nói nhỏ. “Tao dễ nổi cáu lắm. Tao đã nói quá lời.”
Tôi muốn nói với nó rằng đừng để ý đến chuyện đó, nhưng mấy từ đó cứ tắc lại trong cổ. Bảo nó đừng áy náy có lẽ còn khó hơn.
“Từ nhỏ mắt tao đã kém rồi, thế nên tao nóng tính lắm.”
“Nóng tính với mắt kém có liên quan gì đâu?”
“Đáng lẽ tao phải xin lỗi ông ấy.” Mặt Wakabe nhăn nhúm lại. “Hay mình gõ cửa thử xem?” Yamashita run run nói. Vừa lúc đó cánh cửa sổ lạch cạch mở ra chừng mười lăm phân. Chúng tôi nín thở nhìn về phía đó. Cánh tay gầy guộc nhăn nheo đúng là của ông cụ run run hiện ra. Trông chẳng khác gì cánh tay của xác chết sống lại thò lên từ dưới mộ.
“Làm thế nào bây giờ? Này, làm thế nào bây giờ? Ông ấy chắc chắn sắp chết rồi!” Yamashita vẫn đang đứng kiễng chân, luống cuống nói.
“Làm thế nào là sao?”
“Làm gì đó chứ sao nữa? Này, mình phải làm gì đấy đi chứ!”
Wakabe cứng đơ người, mắt mở to, từ cổ họng nó phát ra những âm ru ru quái dị.
“Wakabe!”
Không biết nên nhìn bàn tay xác chết sống lại kia hay nhìn Wakabe lúc này trông như sắp sùi bọt mép, cổ tôi cứ hết ngoái sang trái lại ngoái sang phải hệt như một con gà.
“Ủa?”
Đột nhiên, bàn tay của ông cụ ngừng cử động. Tôi vừa nghĩ vậy, thì bỗng thấy ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay ấy giơ lên. Thành hình chữ V hướng về phía chúng lôi.
* * *
“Chết tiệt! Ồng ta muốn giỡn mặt tụi mình!”
Wakabe cáu đến mức đầu như sắp bốc khói.
“Ông ta đang trêu chọc mình!” Tôi đã thực sự lo lắng cho ông cụ nên cũng đâm bực ghê gớm.
“Bọn mình bị ông ấy chơi rồi!” Yamashita mang vẻ mặt nửa cười nửa mếu.
“Lắm mồm!”
Wakabe phăng phăng bước đi, chẳng thèm sửa cặp kính đang trễ xuống. Tôi và Yamashita chạy đuổi theo sau.
“Đó chắc chắn là lời tuyên chiến với bọn mình!” Wakabe đột nhiên đứng khựng, quay phắt lại.
“Được rồi. Tao nhất quyết tiếp tục theo dõi ông ấy! Dẫu chúng mày có phản đối, tao vẫn sẽ làm một mình.”
“Được!” Tôi nói. “Đã thế này thì phải làm đến cùng!”
Bao nhiêu cảm giác hối lỗi trong tôi đã tiêu tán sạch. Phía bên kia đã thế thì ta cũng làm luôn.
“Đúng là lì lợm!” Yamashita nói.
Cũng có thể nói như vậy. Ông già đó có giết cũng chẳng chết được đâu.