Các Trận Chiến Làm Thay Đổi Thế Giới
Chương 2: Trận MARATHON, năm 490 Trước Công Nguyên Hy Lạp VS Ba Tư
1. Nước tham chiến: Hy Lạp vs Ba Tư.
Tướng cầm quân: Mitiades( Hy Lạp), Datis( Ba Tư).
2.Địa điểm:
Marathon nằm cách Athens 42km, là một thung lũng bằng phẳng có núi rừng bao quanh ba mặt: Bắc, Tây và Nam. Phía Đông Marathon là vùng biển Aegean quanh năm sóng vỗ
3. Hoàn cảnh trước trận chiến
Vào những năm cuối thế kỷ 5 TCN trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ phát triển, bằng các cuộc chinh phục mở rộng đất đai. Ba Tư đã trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Tây Á với diện tích gần 2 triệu km². Lãnh thổ đế quốc Ba Tư phía Bắc giáp biển Đen, biển Caspi, biển Aral; phía Nam giáp biển Đỏ, vịnh Persian, biển Ả Rập; phía Tây kéo dài tới sông Danube và bờ Địa Trung Hải; phía Đông giáp sông Ấn. Mặc dù đế quốc đã rộng lớn như vậy nhưng hoàng đế Ba Tư Darius I Đại Đế (trị vì:522 TCN-485 TCN) vẫn không bỏ mộng bá chủ thế giới, xâm lăng chinh phục, mở rộng hơn nữa lãnh thổ của mình.
Darius Đại Đế, hoàng đế của Đế quốc Ba Tư. Tám năm trước khi trận chiến Marathon diễn ra, thành bang Athens thuộc Hy Lạp đã chi viện cho cuộc nổi dậy của nhân dân vùng Tiểu Á chống lại sự thống trị của Ba Tư. Bằng sự chi viện đó, các bộ tộc gốc Hy Lạp vùng Tiểu Á đã đánh chiếm và thiêu hủy thành Sardis, một đô thị giàu có và sầm uất của Ba Tư. Tuy nhiên chỉ 2 năm sau quân Ba Tư đã dẹp tan được cuộc nổi dậy đó. Việc Athens, một tiểu quốc nhỏ bé ở phía Tây xa xôi dám giúp đỡ các bộ tộc Tiểu Á chống lại mình đã làm cho Darius I nổi giận, thực hiện ý đồ trả thù người Athens và là cũng là dịp may hiếm có để tiến hành cuộc chinh phục tiếp theo. Theo sử gia Herodotus thì để thể hiện quyết tâm của mình, Darius I đã sai đêm cây cung ra và bắn một mũi tên lên trời mà nói rằng: "Xin Thượng Đế cho con được tự tay trả thù người Athens".
Ngay sau đó, Darius I tăng cường ổn định tình hình trong nước, xúc tiến việc củng cố quân đội, đóng thêm thuyền chiến, tích trữ lương thảo và chờ thời cơ thực hiện ý đồ. Năm 492 TCN, ông tiến hành cuộc viễn chinh lần thứ nhất đánh chiếm eo biển Henretspon và xứ Theraso. Tuy nhiên hạm đội của ông bị quân Theraso tiêu diệt. Cuộc viễn chinh lần thứ nhất thất bại.
Hai năm sau, Darius I lại điều động lực lượng tiến hành cuộc viễn chinh lần hai. Trong cuộc viễn chinh này hạm đội Ba Tư có tới 600 chiến thuyền và 10 vạn quân dưới sự chỉ huy của tướng Datis và Artaphernes. Đoàn quân viễn chinh xuất phát từ đảo Samos, men theo bờ biển vùng Tiểu Á chiếm các đảo Naxos, Delos. Nhân dân các đảo đã quyết chiến đấu một cách dũng cảm. Nhưng chỉ sau một tuần, quân Ba Tư đã chiếm được các đảo. Hầu hết các cư dân ở đây đều trở thành nô lệ và vùng biển này trở thành căn cứ xuất phát của hạm đội Ba Tư sang phía Tây. Sau thắng lợi đó, Ba Tư tiếp tục tiến vào biển Attica và sau đó đổ bộ lên Marathon. Cuộc đổ bộ thực chất chỉ nhằm kéo quân Athens bỏ ngỏ thủ phủ Athens tạo điều kiện cho họ men theo bờ biển để vòng lên đánh chiếm.
Chuẩn bị chiến tranh:
Mùa thu, đồng bằng Marathon khá ẩm ướt. Quân Ba Tư sau khi đổ bộ đã tiến hành dựng lều trại trên bãi biển với ý định nghi binh, làm cho người Athens tưởng rằng họ sẽ tác chiến tại đây. Được tin quân Ba Tư đổ bộ, sau khi để lại một lực lượng bảo vệ, các tướng lĩnh Athens nhanh chóng điều hơn 1 vạn quân đến Marathon. Trên ngọn đồi Cotroni nhìn xuống thung lũng Marathon mà phía xa, trên bãi biển quân Ba Tư đang kéo thuyền lên bờ và đóng trại, một cuộc họp quan trọng của hội đồng tướng lĩnh Athens được triệu tập. Đây là cuộc họp có ý nghĩa quyết định vận mệnh của thành bang Athens trước sự xâm lược của người Ba Tư. Hội đồng tướng lĩnh bao gồm 10 đại biểu đại diện cho các địa phương thành lập xứ Athens và một vị thẩm phán cao cấp là Callimachus. Cuộc họp diễn ra trong không khí căng thẳng nhưng tất cả 11 con người đều thể hiện ý chí quyết tâm chiến đấu một mất một còn với quân Ba Tư. Một vấn đề nan giải được đặt ra và gây tranh luận trong cuộc họp là tiến hành giao chiến ở đâu và như thế nào? Nên giao chiến với quân Ba Tư ngay trên cánh đồng hay lùi về giữ các ngọn đồi, nơi có địa thế cao nhằm ngăn chặn quân Ba Tư và chờ quân tiếp viện tới? Cuộc tranh luận kéo dài và trong 10 vị thủ lĩnh đại diện cho 10 địa phương của Athens thì có 5 người đồng ý giao chiến ngay tại Marathon và 5 người không đồng ý. Những người không muốn giao chiến ở Marathon cho rằng lực lượng ở đây quá ít, mà quân Ba Tư lại quá đông lại có kỵ binh mạnh, nếu quân Athens giao chiến ở đây e khó có thể bảo toàn lực lượng và thất bại là điều khó tránh khỏi. Đối với những người quyết tâm giao chiến ở Marathon, trong đó có Miltiades, một vị tướng mưu lược tài ba của Athens thì cho rằng quân Ba Tư dù đông nhưng nếu giao chiến ở đây sẽ bộc lộ nhiều điểm yếu. Kỵ binh Ba Tư với tài phi ngựa, bắn cung là lực lượng chủ yếu của quân Ba Tư chỉ quen đánh phân tán, nếu đánh tập trung sức chiến đấu sẽ bị hạn chế. Vả lại giờ đây, các tướng lĩnh Athens đã nhìn thấy phần lớn lực lượng kỵ binh này đã xuống thuyền về Athens theo đường biển. Số kỵ binh còn lại của Ba Tư sẽ khó cơ động trên cánh đồng chật hẹp, lầy lội. Quân Ba Tư lại là đội quân hỗn hợp của nhiều dân tộc bị chinh phục, chiến đấu không có mục đích, không được huấn luyện một cách kỹ càng và đặc biệt chỉ được trang bị vũ khí ngắn và cung tên là chủ yếu. Trong khi đó quân Athens mặc dù lực lượng ít hơn nhưng họ được huấn luyện kỹ, được trang bị giáo và mác dài hơn, có kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao. Cuộc họp kéo dài mà chưa đến kết luận và còn phải chờ quyết định cuối cùng của Callimachus. Để giúp ông có quyết định hoàn toàn đúng đắn, Miltiades đã nói:
" Callimachus, bây giờ là tùy thuộc ở bạn muốn đưa Athens vào vòng nô lệ, hoặc là đảm bảo nền tự do của thành này và giành lấy cho bạn một vinh quang bất diệt còn hơn vinh dự mà Hamodius và Aristotle đã có. Bởi vì từ khi người Athens hợp lại thành một dân tộc, chưa bao giờ họ lâm vào một cơn nguy hiểm như thế này. Nếu họ quỳ gối trước mặt quân Medes, họ sẽ bị giao cho Hippias và bạn cũng biết khi đó họ sẽ đau khổ biết chừng nào. Nhưng nếu Athens chiến thắng trong cuộc thử sức này, nó có thể từ chiến thắng đó để trở thành đô thị số một của Hy Lạp. Lá phiếu của bạn là quyết dịnh chúng ta có chấp nhận giao tranh hay không. Nếu bây giờ chúng ta không giao chiến, một vài phần tử âm mưu sẽ chia rẽ Athens và đô thị sẽ rơi vào tay Medes. Nhưng nếu chúng ta chiến đấu trước khi có chuyện gì xảy ra tại Athens, tôi tin rằng chúng ta có thể chiếm phần tốt đẹp trong cuộc giao tranh. "
Trước lời lẽ chân thực và đầy sức thuyết phục của Miltiades, Callimachus đã bỏ phiếu đứng về phía những người quyết tâm giao chiến với Ba Tư ngay tại Marathon.
4. Diễn biến:
Từ quyết định đúng đắn đó, Callimachus ra lệnh cho quân Athen chuẩn bị giao chiến. Xuất phát từ đặc điểm địa hình cánh đồng Marathon, hai bên đều là đầm lầy, mùa thu vào thời điểm trận đánh lại bị ngập nước, Callimachus và Miltiades đã thay đổi cách bố trí đội hình phalax thông thường. Với 11.000 bộ binh, thay vì tổ chức thành một khối dày đặc, Callimachus đã kéo dài đội hình với chính diện hơn 1km bằng chiều rộng cánh đồng, sát các khu vực đầm lầy. Bên cạnh đó, hai đầu đội hình được tăng cường lực lượng, giữ nguyên tám hàng xung trận, quân Athen ở chính diện và hai đầu, kích hàng ngang tiến nhanh về phía quân Batư.
Trước quyết tâm giao chiến của quân Athen, lực lượng nghi binh còn lại của quân Batư với khoảng 10.000 bộ binh và 10.000 kị binh cũng dàn đội hình theo kiểu phalax với chính giữa là bộ binh và hai bên sườn là kị binh. Sau đó các tướng lĩnh Ba tư cũng thúc quân tiến lên công kich. Thế là cả 2 đội quân với hàng vạn chiến binh, hừng hực khí thế lao vào nhau quyết tử.
Do số lực lượng bộ binh đông và dày đặc, lúc đầu quan Ba tư đã đẩy lùi được chính diện quan Athen, buộc phía Athen phải chống cự một cách quyết liệt, nhưng rốt cuộc cánh giữa vẫn bị chọc thủng và bị dồn qua cánh đồng về nơi xuất phát. Song ở hai đầu bộ đội hình quân Athen, bộ binh nặng đã ngăn chặn đẩy lùi được kị binh Ba Tư. Cuộc chiến đấu diễn ra giằng co và quyết liệt. Các chiến binh 2 bên quấn lấy nhau, đâm chém không dứt, hò reo làm vang động cả một vùng. Đội hình tiến công của quân Ba Tư dần rơi vào thế bất lợi. Quá trình tiến lên, mặc dù đã đẩy đuwocj quân Athen ở chính diện về phía sau, nhưng lại lọt vào giữa đội hình đối phương trên một khu vực chật hẹp, hàng vạn quân Ba Tư hầu như bị bao vây từ ba mặt, không phát huy được sức mạnh của kị binh. Chính lúc đó, tiến kèn hiệu lệnh từ phía quân Athen vang lên, quân Athen từ cánh phải và cánh trái đội hình tiến công mãnh liệt vào hai bên sườn đối phương, tạo thành gọng kìm khép chặt quân Ba tư, cùng lúc cánh giữa quân Athen cũng nhanh chóng tập hợp, ổn định đội hình quay lại tiến công. Đội hình quân Ba Tư chững lại, lâm vào tình trạng bị bao vây hoàn toàn, bị chia cắt và rối loạn. Tuy nhiên, quân Ba Tư vẫn chiến đấu, người trước ngã, người sau tiến lên. Hàng loạt mũi tên dày đặt từ phía quân Ba Tư vẫn tiếp tục bay qua đầu tiền quân Athen. Nhưng tất cả mọi cố gắng của quân Ba Tư đều không hiệu quả, hàng ngũ họ vẫn tiếp tục bị rối loạn và thương vong không kể xiết. Những ngọn kích dài vẫn tiếp tục quật ngã các chiến binh Ba Tư có vũ khí ngắn hơn.
Cuối cùng quân Ba tư buộc phải quay đầu rút chạy về phía bờ biển, nơi các chiến thuyền đang được hạ thủy. Một bộ phần quân Athen tiếp tục truy kích quân Ba Tư đến sát mép biển. Quân Ba Tư vừa đẩy thuyền chiến vừa chiến đấu một cách tuyệt vọng. Song, quân Athen cũng bị thương vong một số, và đó là thương vong chủ yếu của họ trong trận đánh. Cũng tại đây, Callimachus, người chủ trì chính cuộc chiến, một trong những người chỉ huy dũng cảm của quân Athen đã ngã xuống.
Những chiến thuyền còn lại của Ba Tư lúc đó đã chạy thoát ra biển khơi. Quân Athen kết thúc thắng lợi, thu 7 chiến thuyền và nhiều vũ khí của quân Ba Tư vứt lại khi tháo chạy. Số quân Athen tử trận theo ước tính chỉ gần 200, trong khi đó quân Ba Tư để lại trên chiến trường 6400 xác chết.
Clip mô phỏng:
http://www.youtube.com/watch?v=yFA54ys-wmY
http://www.youtube.com/watch?v=9ftAKMZfgKw
5. Kết quả trận chiến:
"Nền dân chủ" đầu tiên của Thế giới đã được bảo vệ, đây là các học giả phương Tây đánh giá.
Từ đây danh từ "Ma-ra-tông" xuất hiện. Do thua kém về số lượng chiến binh, nên đội quân Athen lúc đó đã cử một người chạy chuyên nghiệp tên là Pheidippides tới Sparta để xin viện trợ. Anh đã thực hiện một chuyến đi dài 240 km chỉ trong một ngày, để khi đến nơi mới phát hiện ra rằng một lễ hội tôn giáo đã ngăn cấm người Sparta đánh nhau cho đến ngày trăng tròn vào 6 ngày sau.
Binh lính Athen đã đơn độc chống lại đội quân Ba Tư tại Marathon và giành chiến thắng. Nhưng một nhóm quân của Ba Tư đã dong thuyền tới tới Athen vì vậy đội quân quả cảm lại vội vàng cử một người trở lại Athen để cảnh báo về cuộc tấn công, và lần này không biết vì lý do gì vẫn là Pheidippides. Người đưa tin đã chạy quãng đường 42 km không ngừng nghỉ và gục chết ngay khi vừa báo tin.
Tướng cầm quân: Mitiades( Hy Lạp), Datis( Ba Tư).
2.Địa điểm:
Marathon nằm cách Athens 42km, là một thung lũng bằng phẳng có núi rừng bao quanh ba mặt: Bắc, Tây và Nam. Phía Đông Marathon là vùng biển Aegean quanh năm sóng vỗ
3. Hoàn cảnh trước trận chiến
Vào những năm cuối thế kỷ 5 TCN trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ phát triển, bằng các cuộc chinh phục mở rộng đất đai. Ba Tư đã trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Tây Á với diện tích gần 2 triệu km². Lãnh thổ đế quốc Ba Tư phía Bắc giáp biển Đen, biển Caspi, biển Aral; phía Nam giáp biển Đỏ, vịnh Persian, biển Ả Rập; phía Tây kéo dài tới sông Danube và bờ Địa Trung Hải; phía Đông giáp sông Ấn. Mặc dù đế quốc đã rộng lớn như vậy nhưng hoàng đế Ba Tư Darius I Đại Đế (trị vì:522 TCN-485 TCN) vẫn không bỏ mộng bá chủ thế giới, xâm lăng chinh phục, mở rộng hơn nữa lãnh thổ của mình.
Darius Đại Đế, hoàng đế của Đế quốc Ba Tư. Tám năm trước khi trận chiến Marathon diễn ra, thành bang Athens thuộc Hy Lạp đã chi viện cho cuộc nổi dậy của nhân dân vùng Tiểu Á chống lại sự thống trị của Ba Tư. Bằng sự chi viện đó, các bộ tộc gốc Hy Lạp vùng Tiểu Á đã đánh chiếm và thiêu hủy thành Sardis, một đô thị giàu có và sầm uất của Ba Tư. Tuy nhiên chỉ 2 năm sau quân Ba Tư đã dẹp tan được cuộc nổi dậy đó. Việc Athens, một tiểu quốc nhỏ bé ở phía Tây xa xôi dám giúp đỡ các bộ tộc Tiểu Á chống lại mình đã làm cho Darius I nổi giận, thực hiện ý đồ trả thù người Athens và là cũng là dịp may hiếm có để tiến hành cuộc chinh phục tiếp theo. Theo sử gia Herodotus thì để thể hiện quyết tâm của mình, Darius I đã sai đêm cây cung ra và bắn một mũi tên lên trời mà nói rằng: "Xin Thượng Đế cho con được tự tay trả thù người Athens".
Ngay sau đó, Darius I tăng cường ổn định tình hình trong nước, xúc tiến việc củng cố quân đội, đóng thêm thuyền chiến, tích trữ lương thảo và chờ thời cơ thực hiện ý đồ. Năm 492 TCN, ông tiến hành cuộc viễn chinh lần thứ nhất đánh chiếm eo biển Henretspon và xứ Theraso. Tuy nhiên hạm đội của ông bị quân Theraso tiêu diệt. Cuộc viễn chinh lần thứ nhất thất bại.
Hai năm sau, Darius I lại điều động lực lượng tiến hành cuộc viễn chinh lần hai. Trong cuộc viễn chinh này hạm đội Ba Tư có tới 600 chiến thuyền và 10 vạn quân dưới sự chỉ huy của tướng Datis và Artaphernes. Đoàn quân viễn chinh xuất phát từ đảo Samos, men theo bờ biển vùng Tiểu Á chiếm các đảo Naxos, Delos. Nhân dân các đảo đã quyết chiến đấu một cách dũng cảm. Nhưng chỉ sau một tuần, quân Ba Tư đã chiếm được các đảo. Hầu hết các cư dân ở đây đều trở thành nô lệ và vùng biển này trở thành căn cứ xuất phát của hạm đội Ba Tư sang phía Tây. Sau thắng lợi đó, Ba Tư tiếp tục tiến vào biển Attica và sau đó đổ bộ lên Marathon. Cuộc đổ bộ thực chất chỉ nhằm kéo quân Athens bỏ ngỏ thủ phủ Athens tạo điều kiện cho họ men theo bờ biển để vòng lên đánh chiếm.
Chuẩn bị chiến tranh:
Mùa thu, đồng bằng Marathon khá ẩm ướt. Quân Ba Tư sau khi đổ bộ đã tiến hành dựng lều trại trên bãi biển với ý định nghi binh, làm cho người Athens tưởng rằng họ sẽ tác chiến tại đây. Được tin quân Ba Tư đổ bộ, sau khi để lại một lực lượng bảo vệ, các tướng lĩnh Athens nhanh chóng điều hơn 1 vạn quân đến Marathon. Trên ngọn đồi Cotroni nhìn xuống thung lũng Marathon mà phía xa, trên bãi biển quân Ba Tư đang kéo thuyền lên bờ và đóng trại, một cuộc họp quan trọng của hội đồng tướng lĩnh Athens được triệu tập. Đây là cuộc họp có ý nghĩa quyết định vận mệnh của thành bang Athens trước sự xâm lược của người Ba Tư. Hội đồng tướng lĩnh bao gồm 10 đại biểu đại diện cho các địa phương thành lập xứ Athens và một vị thẩm phán cao cấp là Callimachus. Cuộc họp diễn ra trong không khí căng thẳng nhưng tất cả 11 con người đều thể hiện ý chí quyết tâm chiến đấu một mất một còn với quân Ba Tư. Một vấn đề nan giải được đặt ra và gây tranh luận trong cuộc họp là tiến hành giao chiến ở đâu và như thế nào? Nên giao chiến với quân Ba Tư ngay trên cánh đồng hay lùi về giữ các ngọn đồi, nơi có địa thế cao nhằm ngăn chặn quân Ba Tư và chờ quân tiếp viện tới? Cuộc tranh luận kéo dài và trong 10 vị thủ lĩnh đại diện cho 10 địa phương của Athens thì có 5 người đồng ý giao chiến ngay tại Marathon và 5 người không đồng ý. Những người không muốn giao chiến ở Marathon cho rằng lực lượng ở đây quá ít, mà quân Ba Tư lại quá đông lại có kỵ binh mạnh, nếu quân Athens giao chiến ở đây e khó có thể bảo toàn lực lượng và thất bại là điều khó tránh khỏi. Đối với những người quyết tâm giao chiến ở Marathon, trong đó có Miltiades, một vị tướng mưu lược tài ba của Athens thì cho rằng quân Ba Tư dù đông nhưng nếu giao chiến ở đây sẽ bộc lộ nhiều điểm yếu. Kỵ binh Ba Tư với tài phi ngựa, bắn cung là lực lượng chủ yếu của quân Ba Tư chỉ quen đánh phân tán, nếu đánh tập trung sức chiến đấu sẽ bị hạn chế. Vả lại giờ đây, các tướng lĩnh Athens đã nhìn thấy phần lớn lực lượng kỵ binh này đã xuống thuyền về Athens theo đường biển. Số kỵ binh còn lại của Ba Tư sẽ khó cơ động trên cánh đồng chật hẹp, lầy lội. Quân Ba Tư lại là đội quân hỗn hợp của nhiều dân tộc bị chinh phục, chiến đấu không có mục đích, không được huấn luyện một cách kỹ càng và đặc biệt chỉ được trang bị vũ khí ngắn và cung tên là chủ yếu. Trong khi đó quân Athens mặc dù lực lượng ít hơn nhưng họ được huấn luyện kỹ, được trang bị giáo và mác dài hơn, có kỷ luật và tinh thần chiến đấu cao. Cuộc họp kéo dài mà chưa đến kết luận và còn phải chờ quyết định cuối cùng của Callimachus. Để giúp ông có quyết định hoàn toàn đúng đắn, Miltiades đã nói:
" Callimachus, bây giờ là tùy thuộc ở bạn muốn đưa Athens vào vòng nô lệ, hoặc là đảm bảo nền tự do của thành này và giành lấy cho bạn một vinh quang bất diệt còn hơn vinh dự mà Hamodius và Aristotle đã có. Bởi vì từ khi người Athens hợp lại thành một dân tộc, chưa bao giờ họ lâm vào một cơn nguy hiểm như thế này. Nếu họ quỳ gối trước mặt quân Medes, họ sẽ bị giao cho Hippias và bạn cũng biết khi đó họ sẽ đau khổ biết chừng nào. Nhưng nếu Athens chiến thắng trong cuộc thử sức này, nó có thể từ chiến thắng đó để trở thành đô thị số một của Hy Lạp. Lá phiếu của bạn là quyết dịnh chúng ta có chấp nhận giao tranh hay không. Nếu bây giờ chúng ta không giao chiến, một vài phần tử âm mưu sẽ chia rẽ Athens và đô thị sẽ rơi vào tay Medes. Nhưng nếu chúng ta chiến đấu trước khi có chuyện gì xảy ra tại Athens, tôi tin rằng chúng ta có thể chiếm phần tốt đẹp trong cuộc giao tranh. "
Trước lời lẽ chân thực và đầy sức thuyết phục của Miltiades, Callimachus đã bỏ phiếu đứng về phía những người quyết tâm giao chiến với Ba Tư ngay tại Marathon.
4. Diễn biến:
Từ quyết định đúng đắn đó, Callimachus ra lệnh cho quân Athen chuẩn bị giao chiến. Xuất phát từ đặc điểm địa hình cánh đồng Marathon, hai bên đều là đầm lầy, mùa thu vào thời điểm trận đánh lại bị ngập nước, Callimachus và Miltiades đã thay đổi cách bố trí đội hình phalax thông thường. Với 11.000 bộ binh, thay vì tổ chức thành một khối dày đặc, Callimachus đã kéo dài đội hình với chính diện hơn 1km bằng chiều rộng cánh đồng, sát các khu vực đầm lầy. Bên cạnh đó, hai đầu đội hình được tăng cường lực lượng, giữ nguyên tám hàng xung trận, quân Athen ở chính diện và hai đầu, kích hàng ngang tiến nhanh về phía quân Batư.
Trước quyết tâm giao chiến của quân Athen, lực lượng nghi binh còn lại của quân Batư với khoảng 10.000 bộ binh và 10.000 kị binh cũng dàn đội hình theo kiểu phalax với chính giữa là bộ binh và hai bên sườn là kị binh. Sau đó các tướng lĩnh Ba tư cũng thúc quân tiến lên công kich. Thế là cả 2 đội quân với hàng vạn chiến binh, hừng hực khí thế lao vào nhau quyết tử.
Do số lực lượng bộ binh đông và dày đặc, lúc đầu quan Ba tư đã đẩy lùi được chính diện quan Athen, buộc phía Athen phải chống cự một cách quyết liệt, nhưng rốt cuộc cánh giữa vẫn bị chọc thủng và bị dồn qua cánh đồng về nơi xuất phát. Song ở hai đầu bộ đội hình quân Athen, bộ binh nặng đã ngăn chặn đẩy lùi được kị binh Ba Tư. Cuộc chiến đấu diễn ra giằng co và quyết liệt. Các chiến binh 2 bên quấn lấy nhau, đâm chém không dứt, hò reo làm vang động cả một vùng. Đội hình tiến công của quân Ba Tư dần rơi vào thế bất lợi. Quá trình tiến lên, mặc dù đã đẩy đuwocj quân Athen ở chính diện về phía sau, nhưng lại lọt vào giữa đội hình đối phương trên một khu vực chật hẹp, hàng vạn quân Ba Tư hầu như bị bao vây từ ba mặt, không phát huy được sức mạnh của kị binh. Chính lúc đó, tiến kèn hiệu lệnh từ phía quân Athen vang lên, quân Athen từ cánh phải và cánh trái đội hình tiến công mãnh liệt vào hai bên sườn đối phương, tạo thành gọng kìm khép chặt quân Ba tư, cùng lúc cánh giữa quân Athen cũng nhanh chóng tập hợp, ổn định đội hình quay lại tiến công. Đội hình quân Ba Tư chững lại, lâm vào tình trạng bị bao vây hoàn toàn, bị chia cắt và rối loạn. Tuy nhiên, quân Ba Tư vẫn chiến đấu, người trước ngã, người sau tiến lên. Hàng loạt mũi tên dày đặt từ phía quân Ba Tư vẫn tiếp tục bay qua đầu tiền quân Athen. Nhưng tất cả mọi cố gắng của quân Ba Tư đều không hiệu quả, hàng ngũ họ vẫn tiếp tục bị rối loạn và thương vong không kể xiết. Những ngọn kích dài vẫn tiếp tục quật ngã các chiến binh Ba Tư có vũ khí ngắn hơn.
Cuối cùng quân Ba tư buộc phải quay đầu rút chạy về phía bờ biển, nơi các chiến thuyền đang được hạ thủy. Một bộ phần quân Athen tiếp tục truy kích quân Ba Tư đến sát mép biển. Quân Ba Tư vừa đẩy thuyền chiến vừa chiến đấu một cách tuyệt vọng. Song, quân Athen cũng bị thương vong một số, và đó là thương vong chủ yếu của họ trong trận đánh. Cũng tại đây, Callimachus, người chủ trì chính cuộc chiến, một trong những người chỉ huy dũng cảm của quân Athen đã ngã xuống.
Những chiến thuyền còn lại của Ba Tư lúc đó đã chạy thoát ra biển khơi. Quân Athen kết thúc thắng lợi, thu 7 chiến thuyền và nhiều vũ khí của quân Ba Tư vứt lại khi tháo chạy. Số quân Athen tử trận theo ước tính chỉ gần 200, trong khi đó quân Ba Tư để lại trên chiến trường 6400 xác chết.
Clip mô phỏng:
http://www.youtube.com/watch?v=yFA54ys-wmY
http://www.youtube.com/watch?v=9ftAKMZfgKw
5. Kết quả trận chiến:
"Nền dân chủ" đầu tiên của Thế giới đã được bảo vệ, đây là các học giả phương Tây đánh giá.
Từ đây danh từ "Ma-ra-tông" xuất hiện. Do thua kém về số lượng chiến binh, nên đội quân Athen lúc đó đã cử một người chạy chuyên nghiệp tên là Pheidippides tới Sparta để xin viện trợ. Anh đã thực hiện một chuyến đi dài 240 km chỉ trong một ngày, để khi đến nơi mới phát hiện ra rằng một lễ hội tôn giáo đã ngăn cấm người Sparta đánh nhau cho đến ngày trăng tròn vào 6 ngày sau.
Binh lính Athen đã đơn độc chống lại đội quân Ba Tư tại Marathon và giành chiến thắng. Nhưng một nhóm quân của Ba Tư đã dong thuyền tới tới Athen vì vậy đội quân quả cảm lại vội vàng cử một người trở lại Athen để cảnh báo về cuộc tấn công, và lần này không biết vì lý do gì vẫn là Pheidippides. Người đưa tin đã chạy quãng đường 42 km không ngừng nghỉ và gục chết ngay khi vừa báo tin.